Gió quét qua vùng hoang mạc không điểm kết, phát ra những âm thanh lúc thấp lúc cao, khi thì như sáo thổi, khi lại giống tiếng gầm của một con thú vô hình. Gió thổi qua đoàn người ngựa, khiến hơi thở họ như đóng băng thành sương trắng. Mùa đông đang cai trị vạn vật thế gian bằng sự khắc nghiệt và tàn nhẫn.
Tháng 2 năm 325 lịch Pars, vua Arslan của Pars dẫn đầu đội quân 2 vạn binh sĩ lên đường tham chiến. Tể tướng Lucian và eran Kishward ở lại kinh đô. Những người lính ưu tú nhất sẽ vượt qua biên giới phía đông để trợ giúp nước láng giềng Sindhura. Bởi cách đây ít lâu, Sindhura bị tấn công bởi một đội quân đeo mặt nạ bí ẩn từ khu vực miền núi phía bắc và cầu Pars chi viện.
Vua Rajendra đệ nhị là bạn, người anh em thân thiết của vua Arslan xứ Pars, điều này được ghi lại trong sử sách Sidhura nhưng lịch sử Pars thì kém nhiệt tình hơn. Chẳng những không có lời ca tụng nào dành cho tình bạn này, mà nhiều binh sĩ còn nhận xét về vị vua láng giềng với lời lẽ gay gắt.
"Lại là tên vua Sindhura đó. Có mỗi cái chuyện biên giới cũng giải quyết không xong, lần nào cũng nhờ chúng ta cứu viện." "Vậy hóa ra chúng ta thành lính đánh thuê của Sindhura à?" "Lính đánh thuê còn phải bỏ tiền ra chiêu mộ, còn chúng ta làm cho họ không công. Có lẽ nên dạy cho tên vua vô liêm sỉ đó một bài học để sau này hắn tự mình đối đầu khó khăn đi." Dù đâu đó có những tiếng phàn nàn nhưng khi vị vua 18 tuổi đã ra lệnh, không người Pars nào bất tuân. Hơn nữa, nếu bị bỏ lại hậu phương thì họ chỉ càng thêm bất mãn bởi những người lính Pars tin rằng không ai thiện chiến hơn mình. Dưới ngọn cờ của vua Arslan, họ chưa từng nếm mùi thất bại.
Theo ý nguyện của Arslan, người chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược lần này vẫn là phó tể tướng Narsus, vị cố vấn quân sự tài ba nức tiếng. Khi nhận được lời cầu viện từ Sindhura, anh liền trải một tấm bản đồ lớn trước mặt nhà vua và giải thích.
"Không cần phái quân tới Sindhura đâu. E là quân chính quy của Turk đã tập trung ở biên giới phía nam, chuẩn bị sẵn sàng, chờ chúng ta tới Sindhura rồi."
Arslan gật đầu, "Ra vậy. Khi quân đội chúng ta vượt sông Kaveri, bước vào lãnh thổ Sindhura thì họ sẽ lập tức nam tiến, cắt đứt đường viện trợ của ta phải không?"
Narsus có vẻ hài lòng. Vì là thầy của vua Arslan nên anh đương nhiên rất mừng khi hiểu biết quân sự của học trò mình ngày một sâu sắc.
"Tuy nhiên, để đột kích vào đất Turk, chúng ta buộc phải đối đầu với địa hình đồi núi hiểm trở cùng đội quân được rèn luyện chính quy, không dễ gì chiến thắng." Dariun nêu quan điểm. Vị mardan của các mardan, kỵ sĩ áo đen này là huyền thoại về lòng dũng cảm ở Pars, trẻ con nghe tên anh ta liền nín khóc. Cũng có giai thoại nói rằng hễ nhắc đến vị "họa sĩ cung đình Pars" thì trẻ con đang khóc sẽ bật cười. Lý do thì chẳng ai biết được.
"Ngươi nói đúng, nhưng yên tâm, chúng ta có thể đến Sindhura thông qua lãnh thổ Turan."
"Qua Turan?"
Arslan vô cùng kinh ngạc, sau đó liền hiểu ra. Dù kế hoạch của Narsus hết sức khác thường nhưng lại hợp lý. Theo suy đoán của Narsus, giả sử đội quân mặt nạ hiện đang xâm chiếm Sindhura toàn là chiến binh Turan thì hẳn nước họ lúc này ở trạng thái trống rỗng, và sự tấn công của Pars sẽ không gặp phải kháng cự nào.
"Đi qua Turan chẳng khác nào đi ngang vùng lãnh thổ hoang vu không người ở, như thế sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Đặc biệt với Jimsa là tướng tiên phong, việc hành quân sẽ còn thuận tiện hơn nữa." Jimsa vốn là người Turan nhưng hiện giờ phụng sự dưới quyền Arslan.
"Được, cứ làm theo kế hoạch của Narsus."
Elam nói xong liền nhận ra một điều. Khi quân Pars đi qua lãnh thổ Turan và Turk thì phải đưa ra lời giải thích chính đáng.
Narsus trả lời.
"Giả sử Turk khẳng định không liên quan đến đội quân mặt nạ kia, thì đội quân mặt nạ chính là một lũ côn đồ tấn công vì mục đích cướp bóc, tàn sát dân lành. Chúng ta chiến đấu chống lại chúng, bảo vệ lẽ phải. Thế thì Turk phải vui mừng cho chúng ta đi qua đất họ mới đúng." Narus biết lý thuyết này rất xa vời nhưng đủ nằm trong phạm vi ngoại giao. Với một vị vua xảo quyệt và tàn nhẫn như Kalhana của Turk thì việc mù quáng bám vào công lý sẽ chỉ gây bất lợi cho mình.
Vậy là Arslan triệu tập Gieve, người vừa quay về từ Turk. Anh ta từng trực tiếp đối thoại với vua Kalhana.
"Gieve, anh nghĩ tính cách vua Turk thế nào?"
Nghe câu hỏi của nhà vua, Gieve cong khóe miệng đáp.
"Bệ hạ, hắn là một tên phiền thoái đấy."
Arslan chớp mắt, và Narsus bật cười lớn. Ngày xưa, trước khi Rajendra đệ nhị lên ngôi, Narsus cũng từng mượn danh vua Turk để đàm phán. Khi ấy, Rajendra lộ rõ vẻ khinh thường và nói "Ta chưa từng nghe vua Turk là người hào hiệp bao giờ." Có vẻ như Gieve và hắn ta có chung quan điểm rồi.
Nhờ báo cáo của Gieve, triều đình Pars xác nhận đội quân đeo mặt nạ có mối quan hệ mật thiết với vua Turk. Bởi khi Gieve cùng đoàn của mình rời Turk, họ đã đối đầu đội quân này và tận mắt trông thấy tấm mặt nạ bạc. Điều đáng thắc mắc là kẻ chiến đấu với Gieve bất phân thắng bại khi ấy có đúng là hoàng tử Hilmes, thành viên hoàng tộc cũ của Pars.
Gieve đã rất cẩn trọng khi lựa lời báo cáo về vụ việc.
"Cả kỹ năng chiến đấu lẫn năng lực cầm quân của hắn đều có thể sánh với hoàng tử Hilmes. Hắn chỉ huy quân lính rất có trật tự."
"Vậy sao?"
"Vâng thưa bệ hạ."
Gieve không dám khẳng định nhưng anh tin đến 8 phần. Trên đời này ít kiếm sĩ nào sánh ngang hoặc vượt qua anh, chưa kể đối phương còn dùng kiếm thuật của Pars.
"Ta biết ngay tên đó không hợp với cuộc sống an phận thủ thường mà."
Hilmes từng giết chú Vahriz của Dariun, tấn công Arslan hòng đoạt lấy ngai vàng. Nhưng khi hắn trốn khỏi đất nước, Dariun cũng quyết định từ bỏ mối thù. Có điều, nếu lần sau gặp lại trên chiến trường, chắc chắn bọn họ phải đấu một trận sinh tử.
Lúc này, Arslan đứng dậy khỏi ngai vàng, nói, "Lập tức chuẩn bị xuất quân, tiến về phương bắc và tới Sindhura thông qua lãnh thổ Turan." Sau đó, chiến dịch mang tên "Nửa vầng trăng của Arslan" bắt đầu được triển khai. Nguồn gốc cái tên này là do lộ trình quân Pars bắt đầu từ phía bắc kinh đô hoàng gia Ecbatana, sau đó vòng sang đông, tiến về phía nam, thành một hình bán nguyệt khổng lồ.
Trong khi Narsus chuẩn bị cho cuộc viễn chinh cùng vua Arslan, anh cũng ra chỉ thị cho hai tướng Kubard và Turk đóng quân tại thành Peshawar ở biên giới phía đông, vì quân Turk hẳn rất đề phòng quân Pars. Họ nhất định sẽ vượt qua sông Kaveri, tiến sang lãnh thổ Sindhura. Hành động "không phụ lòng mong đợi này" nhằm thu hút sự chú ý của chúng.
Đội quân mặt nạ đã vượt qua núi tuyết, tiến về phía nam đất Turk và đến Sindhura sớm hơn quân Pars một tháng. Dẫn đầu 1 vạn kỵ binh là Mặt nạ bạc, từng là hoàng tử Hilmes của Pars. Dưới sự chỉ huy của hắn, kỷ luật quân đội cao như núi.
"Những người không vượt qua ngọn núi nhỏ này thì phải chết. Ta không cần binh lính yếu ớt. Những người đi theo ta chỉ có một con đường, đánh thắng quay về." Người Turan cũng một mực tuân theo mệnh lệnh của Hilmes bởi họ đã tuyệt vọng rồi. Để nuôi sống bản thân và người thân ở quê nhà khỏi nạn đói, họ không có cách nào ngoài vượt qua núi tuyết vào mua đông để tấn công Sindhura. Đây là thảm họa từ trời rơi xuống với người Sindhura, nhưng người Turan không thể thông cảm.
Người Turan dọn tuyết trên đường núi, cắt băng để tiến về phía trước. Những vách đá cao vút dựng đứng hai bên đường, tạo thành lối đi cho những trận gió bắc ầm ầm thổi qua, đẩy lui người và ngựa. Thậm chí đã có vài người bị gió mạnh cuốn bay xuống vực. Thế là người Turan dùng dây thừng buộc vào nhau, giúp nhau vượt lên phía trước. Họ chống trọi với cái rét bằng cách hình dung ra vùng đất Sindhura trù phú và ấm áp đang chờ đợi. Cuối cùng, lòng kiên trì đã được đền đáp. Những đám mây tuyết trên đầu dần biến mất, lộ ra nền trời trong xanh và ánh nắng ấm áp như xuân. Một cánh đồng xanh tươi trải ra trước mắt.
"Nhìn kìa! Mảnh đất chưa từng trải qua băng tuyết của Sindhura đang ở ngay trước mặt chúng ta. Hãy cướp bóc bao nhiêu tùy thích!" Những chiến binh Turan bị Hilmes xúi giục lập tức hô vang, thúc ngựa lao đi trong tâm trạng gần như phát cuồng. Niềm vui khiến họ quên đi 15 ngày chật vật vượt đường núi.
Bi kịch của Sindhura bắt đầu từ đây.
------------------------
Dù vua Rajendra đệ nhị không được được người Pars tin tưởng nhưng hắn lại được người dân nước mình vô cùng yêu mến. Hắn không đưa ra nhiều chính sách cải cách nhưng hắn đặt thuế thấp, quan tâm đến việc bổ nhiệm quan địa phương, khen thưởng người có công, không để đời sống nhân dân khốn khó.
Khung cảnh bình yên của ngôi làng bên kia núi bỗng chốc bị phá hủy. Những nông dân đang trồng vụ lúa mì mùa đông trên cánh đồng nghe thấy tiếng mặt đất ầm ầm rung chuyển. Họ nhìn về phía bắc và thấy một đám bụi cát cuồn cuộn tới gần.
Ánh sáng phản chiếu lên tấm mặt nạ khiến họ sững sờ vì kinh hãi, nhưng chưa thốt lên được tiếng nào, đầu của một người đã bay lên với cái miệng há to.
Đây làm một lời chào đẫm máu. Và với những cái đầu thi nhau rơi xuống, làng quê Sindhura mất đi sự yên bình vốn có. Một đội quân vô danh đã truy giết những người chạy trốn. Ngọn lửa nhấn chìm các ngôi nhà và những cánh đồng lúa họ vất vả trồng cấy. Khói đen bốc lên ngùn ngụt. 500 binh sĩ đóng quân ở làng lân cận lập đến ứng cứu. Họ hoàn toàn bất lực khi đối đầu với đội quân mặt nạ kỳ quái này. Nhưng một người lính đã nhận ra đó là người Turan và báo với chỉ huy.
"Nhìn tư thế cưỡi ngựa, kỹ năng khiển ngựa và vung kiếm trên yên ngựa, có vẻ như chúng là quân Turan."
"Tại sao quân Turan lại tiến đánh từ lãnh thổ Turk? Có sai sót gì không? Chúng ta cần điều tra kỹ hơn."
Sự ngờ vực khiến quân Sindhura càng thêm lúng túng. Đội quân mặt nạ tàn sát, đốt phá không thương tiếc. Trong số 500 lính Sindhura, một nửa chết trận, một nửa xin đầu hàng nhưng vẫn bị xử chém. Chỉ có 3 người sống sót và chạy thoát. Họ trốn đến một thành phố tên là Gangbay để báo cáo tình hình nhóm quân xâm lược.
Thống đốc thành phố Gangbay là Palu, một công chức chịu trách nhiệm thu thuế và xét xử các vụ án dân sự chứ không phải tướng lĩnh chỉ huy. Dù đã tạm thời ra lệnh cho đội trưởng đội quân thành phố dẫn 800 người đi cứu viện, nhưng ông ta gục xuống khi hay tin toàn quân bị diệt. Lẽ ra, ông ta có thể đóng chặt cổng thành, cố thủ đến cùng nhưng ông ta do dự không biết có nên để nông dân vào thành lánh nạn không. Vài phút lưỡng lự ấy đã tạo điều kiện cho giặc xông vào. Ông cụ Palu bị đẩy từ thành cao xuống đất và chết. Toàn thành chìm trong cảnh giết chóc và cướp bóc.
Hành động của đội quân mặt nạ như gió xứ bắc, rất nhanh, rất tàn bạo, lại còn tham lam. Một thương nhân giàu có nọ đeo 20 chiếc nhẫn đắt tiền trên những ngón tay, và nó trở thành nguyên nhân cái chết của ông ta. Sau khi bọn cướp rút lui, người ta tìm thấy xác ông ấy trong nhà nhưng hai bàn tay đã bị đem đi mất.
Tướng Alafadi của Sindhura dẫn 2 ngàn kỵ binh, 15 ngàn bộ binh đến đối đầu đội quân mặt nạ. Đó đáng lẽ phải là một cuộc chiến quyết liệt, nhưng quân Sindhura nhanh chóng bị đánh tan tành. Trong lúc Alafadi còn đang tính toán chiến lược thì đội quân mặt nạ với tốc độ khó tin đã đột kích, dùng vó ngựa hất văng đoàn bộ binh. Kỵ binh nhanh chóng nghênh chiến nhưng cứ 1 người lại bị 3 tên địch bao vây. Vô số mũi giáo đâm xuống, giết cả người lẫn ngựa. Trước khi con số thương vong lên đến hàng nghìn, đội hình quân Sindhura đã tan rã. Alafadi cũng đào thoát khỏi chiến trường.
Cũng may nhờ sự háo hức muốn cướp bóc của đội quân mặt nạ mà Alafadi mới thoát được lưỡi hái tử thần. Sau thất bại thảm hại, Alafadi không dám trốn về kinh đô Urayur mà bí mật quay lại nơi địch đóng quân, điều tra tình hình. Đội quân mặt nạ tiếp tục cướp bóc trong thành Gangbay. Lòng tham của họ gây ra nhiều trận tranh chấp trong nội bộ.
"Thần đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp."
Sau đó, Alafadi quay về báo với vua Rajendra. Một người đeo mặt nạ bạc, khoác tấm áo choàng thêu xa xỉ đứng trước một tên cướp cũng đeo mặt nạ khác, hai tay ôm đầy của cải mới cướp bóc được. Hắn ta không nói lời nào, cũng không để đối phương lên tiếng, đã vung kiếm quét một đường. Cái đầu đeo mặt nạ bay lên, xoay vài vòng trước khi rơi xuống đất. Kiếm thuật của kẻ đó khiến Alafadi vô cùng kinh ngạc.
"Ngay sau đó, đội quân mặt nạ lập tức trở nên trật tự và kỷ luật." Toàn bộ của cải cướp được đều tập trung về một chỗ. Một nửa chất lên xe bò, nửa kia được phân phát cho quân lính, không một ai phản đối. Chỉ nhìn bằng mắt cũng thấy được sức mạnh phi thường của vị chỉ huy này.
"Ta hiểu rồi. Hắn quả đáng sợ."
Rajendra lẩm bẩm sau khi nghe chuyện. Hắn hoàn toàn hình dung ra vị chỉ huy của đội quân mặt nạ kia hẳn là một người vô cùng nghiêm khắc, đồng nghĩa với việc đội quân ấy không phải là một toán cướp thông thường.
"Vậy chúng thật sự là người Turan sao?"
"Cũng có thể là người Turk, khó mà nói được."
Alafadi không nghe thấy giọng của Hilmes nên không dám đưa ra kết luận, trong khi Rajendra nghiêng đầu bối rối.
"Ta thật sự không hiểu vì sao người Turan lại điều quân từ lãnh thổ Turk. Chẳng lẽ toàn bộ lãnh thổ Turk đều đã bị Turan chiếm đóng?" Hay là ngược lại nhỉ? Rajendra tự hỏi. Có thể nào Turk thuê người Turan đến quấy rối Sindhura.
"Thật tráo trở! Trước kia ba nước từng liên minh đánh Pars, vậy mà giờ chúng lật mặt, đem quân xâm lược chúng ta. Đúng là vô lý, ít nhất chúng cũng nên tấn công Pars chứ quay sang ta làm gì?" Tuy lời nói có vẻ ích kỷ nhưng dường như Rajendra đã nhìn ra phần nào chân tướng. Chỉ là hắn không biết người chỉ huy đội quân mặt nạ chính là thành viên hoàng tộc cũ của Pars. Trên thực tế, điều này cũng nằm ngoài sức tưởng tượng của bất cứ người nào. Trí tuệ con người đâu toàn năng như thần thánh.
Tóm lại, Rajendra lệnh cho toàn bộ quân đội ở kinh đô Uraiyur sẵn sàng chờ lệnh, nhưng tin bại trận liên tiếp báo về.
Ranjendra bất đắc dĩ thừa nhận sức mạnh của đội quân mặt nạ này. Nghĩ đến đây, hắn chợt nảy ra ý tưởng lấy độc trị độc. Chẳng phải Rajendra có một người bạn thân, dưới trướng cậu ta có vô số võ tướng dũng mãnh hay sao?
Vậy là ba cô hầu gái xinh đẹp giúp nhà vua mặc áo giáp. Rajendra viết cho Arslan một lá thư cầu viện.
Ngoài ra, Rajendra cũng gửi thư đến Turk tra hỏi : "Một nhóm người có vũ trang đang tàn phá biên giới nước ta. Nước ngài hẳn không liên quan gì đến vụ việc này chứ?" Việc cử sứ giả đến Turk là điều cần thiết bởi vua Turk chắc chắn sẽ trả lời rằng "Chuyện này chẳng liên quan gì đến chúng tôi hết." Nhận được câu trả lời như vậy thì mọi chuyện sẽ được giải quyết ngay thôi. Một khi đội quân mặt nạ không phải Turk gửi đến thì xử lý họ trên đất Sindhura thế nào là việc của người Sindhura. Đây là một chiến lược ngoại giao khôn ngoan.
Thế nhưng sứ thần do Rajendra cử đến không thể gặp được vua Turk là Kalhana. Ông ta mất tích ngay sau khi đặt chân lên biên giới. Vị sứ thần bất hạnh ấy bị giết và bí mật chôn xác một cách dã man dưới sự chỉ thị ngầm của vua Turk. Kalhana không thích một cuộc trò chuyện vô nghĩa.
Đã một tháng rưỡi kể từ khi thư của Rajendra gửi đến Arslan. Lễ mừng năm mới đã kết thúc và Pars đang chuẩn bị cho đợt trồng cấy mùa xuân. Vì vậy. Arslan thương lượng với Narsus về việc đưa quân tiếp viện cho Sindhura.
"Hả? Lần này bệ hạ lại thân chinh ra trận nữa sao?"
"Tính cách của bệ hạ là thế mà."
"Ta nghĩ vua Sindhura chí ít cũng nên nhượng lại 2 hoặc 3 tòa thành làm quà cảm ơn."
"Nếu lần nào cầu viện cũng nhận lời thì phiền lắm. Cách tốt nhất để đối phó với kẻ như vua Sindhura là mặc kệ hắn đi."
Đó là cuộc trò chuyện giữa hai vị tướng Jaravant và Isfan. Nhưng Narsus hiểu rằng một khi Arslan làm ngơ, Rajendra sẽ đổi phe ngay lập tức, thậm chí còn đề nghị với kẻ địch "So với xâm lược chúng ta, Pars là miếng mồi béo bở hơn. Ta cũng sẽ giúp sức." Điều quan trọng lúc này là giáng cho Turk một đòn thật đau và tìm hiểu ý đồ của vua Kalhana.
Mặt khác, Narsus cho rằng trong khi nhà vua vắng mặt, những kẻ đang ẩn mình có thể sẽ gây hỗn loạn ở kinh đô hoàng gia Ecbatana, cho nên dặn tể tướng Lucian đảm nhận công việc điều hành triều chính, eran Kishward cần hành động ngay khi có điểm bất thường. Vì là tướng thủ thành nên Jaravant cũng cần đề cao cảnh giác. Narsus không quên căn dặn cách thức xử lý những vụ kiện tụng lớn.
"Thay vì chờ lửa bốc khói, để nó cháy vượng còn dễ dập tắt hơn. Đốt chút lửa cũng không tệ đâu." Narsus nói nhưng bạn anh lại không đưa ra lời giải thích dễ nghe cho lắm.
"Ý ngươi là nếu không có chuyện gì thì chi bằng tự mình gây chuyện đúng không? Mau xin lỗi các vị thần trên cao đi!"
"Ta e là các vị ấy không hơi đâu mà phàn nàn."
Narsus phớt lờ lời chế nhạo của chàng hiệp sĩ đen, bắt đầu vạch chiến lược.
Quân tiếp viện cho Sindhura chỉ có 2 vạn nhưng đều là lính tinh nhuệ, được chọn lựa kỹ càng. Tướng lĩnh đi cùng gồm Narsus, Dariun, Farangis, Elam, Alfarid, Jaswant và Isfan. Tất cả đều là thuộc hạ đáng tin cậy của nhà vua. Merlane ở lại làm đơn vị cơ động. Anh chẳng những là thủ lĩnh ưu tú của tộc Zot mà còn là vị tướng quan trọng, được phép tự quyết định hành động.
Gieve, Elam, Jaswant và Merlane đều thạo địa hình Turk. Trong lúc làm sứ giả ngoại giao, họ đương nhiên cũng thực hiện nhiệm vụ thăm dò các khu vực của nước bạn. Cho nên ngoại giao thực ra cũng là một hình thức thu thập tình báo.
Với Jaswant, đây là trận chiến bảo vệ quê hương khỏi những kẻ cướp bóc man rợ nên anh tràn đầy động lực, chuẩn bị cho cuộc viễn chinh. Alfarid và Elam vẫn cãi nhau khi tập hợp binh lính, chọn ngựa, đếm tên, phân loại vũ khí. Chú diều hâu Azrael đậu trên vai Arslan, nhàn nhã dùng mỏ rỉa lông.
Nhưng có một người đàn ông cảm thấy mệt mỏi bơ phờ, đó là chàng hát rong Gieve. Anh ta không thích Turk, chỉ muốn ở lại Ecbatata, tận hưởng thời gian nhàn rỗi trước khi mùa xuân đến.
"Ta sẽ không đến cái xứ đó nữa đâu. Đừng nhờ cậy ta nữa." Điều Gieve ghét nhất là không thấy bóng dáng người đẹp nào ở Turk cả.
Nghe Elam truyền đạt như thế, Arslan bật cười, vừa nghịch tóc vừa trêu đùa, "Sao lại không có người đẹp ở Turk được cơ chứ? Chắc chắn là họ nghe tin Gieve đang đến nên mới đóng kín cửa sổ và lối ra vào, nín thở trốn bên trong."
"Tôi cũng nghĩ vậy. Tóm lại, Gieve không định tham gia chuyến đi lần này đâu. Chắc anh ta sẽ vùi mình trong kỹ viện nào đó ở Ecbatana cho đến mùa xuân."
"Thật đáng tiếc. Nếu anh ấy không đi cùng, chắc tiểu thư Farangis sẽ cô đơn lắm."
Giọng điệu thản nhiên của Arslan quả là có tác dụng lớn. Nghe Elam truyền lại lời của nhà vua, Gieve liền đứng bật dậy, chuẩn bị lên đường viễn chinh. Anh ta lẩm bẩm : "Sao bệ hạ càng lúc càng xấu tính thế nhỉ? Lây từ ai à?"
---------------------------------
Quân Pars vượt qua thảo nguyên Turan không gặp trở ngại nào, giống như Narsus dự đoán. Thảo nguyên Turan đầy sông hồ, thường gây khó khăn cho các kỵ binh, nhưng vào mùa này, mặt nước đã đóng băng dưới cái lạnh khắc nghiệt nên họ có thể dễ dàng di chuyển bên trên.
Chỉ trong 10 ngày, Pars đã hành quân qua lãnh thổ rộng lớn của Turan, nhìn thấy vùng núi bạc trùng điệp ở phía nam, tức là đã sang đến lãnh thổ Turk.
"Thậm chí còn không bắt gặp một bóng người."
Dariun nói Arslan để ý đến người Turan không phải vì chàng lo bị tấn công mà khi nhìn thấy thảo nguyên mùa đông lạnh giá, chàng đồng cảm với cảnh khốn khó của họ.
"Người già, người bệnh và trẻ con sẽ chết đói ở đây mất. Có thể chia một ít thức ăn dự phòng cho họ không?"
Dariun, người luôn nhất nhất nghe lệnh Arslan, lần này lại không tuân theo ngay lập tức.
"Bệ hạ, thần cả gan thưa với người rằng, đây chỉ là sự cảm thương nhất thời, không có gì đảm bảo đối phương sẽ không trả thù." Dariun vẫn ôm lòng nghi hoặc, dù giúp đỡ người khốn khó là chuyện tốt. Nhưng ở Turan, đôi khi điều này khiến họ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Những người Turan kiêu hãnh có thể còn thấy nhục nhã khi nhận bố thí từ kẻ khác và tấn công cũng nên. Họ không nên cứu trợ khi tình hình chưa quá nghiêm trọng.
"Thông cảm cho kẻ yếu là phẩm chất cao quý nên thấn sẽ không ngăn cản." Narsus nói, "Nhưng sẽ có những kẻ xảo quyệt cố tìm cách lợi dụng lòng tốt của bệ hạ. Nếu bệ hạ đưa thức ăn cho người Turan, hãy để họ nghĩ rằng chúng ta dùng số lương thực ấy làm phí thông hành, cho phép chúng ta đi qua lãnh thổ Turan. Thần tin họ sẽ bằng lòng nhận lấy."
Nghe vậy, Dariun nghiêng đầu, "Nếu họ vẫn cự tuyệt thì sao?"
"Vậy thì tùy họ, không phải người tốt lúc nào cũng nhận được sự đối đãi tương xứng, đối phương cũng có quyền từ chối thiện ý của ta. Hiện giờ hai ta đều đang nghĩ cách để đạt được ý muốn của bệ hạ." Narsus bảo mọi người chuẩn bị một lượng thuốc để có thể hòa tan băng lấy nước uống. Ngoài ra còn có thuốc đau bụng, thuốc mỡ chống cóng, thuốc nhỏ mắt chống gió mạnh và bụi cát, cùng một loại thần dược để sưởi ấm, chính là rượu.
Sau đó, anh đặt lương thực và chỗ thuốc này vào một chiếc lều dựng ven đường, kèm một lá thư tiếng Pars : "Những món quà này để cảm ơn đất nước các bạn đã cho chúng tôi đi qua lãnh thổ." Người Turan không thích nhận sự bố thí của người khác. Phương châm của họ là cướp bóc bằng lòng dũng cảm. Tuy nhiên, họ vẫn phải đối mặt với sự thiếu thốn lương thực vào mùa đông, và những người đàn ông gánh vác gia đình thì giờ đang chinh chiến ở Turk. Ở nhà chỉ còn người già, người bệnh, phụ nữ, trẻ em, không kham nổi những việc nặng nề. Quân Pars có vũ khí, nên họ không còn cách nào trơ mắt nhìn lực lượng hùng hậu ấy đ ingang. Tuy nhiên, thức ăn bỏ lại trong lều sẽ giúp họ sống sót qua mùa đông này.
Dù vị tướng người Turan, Jimsa không đưa ra lời bình luận nào nhưng ắt hẳn trong lòng anh ta có nhiều cảm xúc lẫn lộn.
Quân Pars tiếp tục tiến về phương nam trong ánh hoàng hôn đỏ rực. Áo giáp, kiếm và giáo của họ tỏa sáng lạnh lẽo như một nhóm sao xa vội vã đáp xuống trước khi màn đêm buông.
Khoảng 3000 quân đóng ở biên giới phía bắc của Turk. Họ chưa bao giờ mơ rằng có kẻ thù nào tấn công họ từ hướng này, bởi nước láng giềng phương bắc Turan gần như đã sụp đổ. Việc phòng thủ chỉ mang tính chống đối, hoàn toàn không có sự chuẩn bị nào.
Khi trời sáng, quân Pars đã qua được biên giới. Dù những người lính Turk duy trì tinh thần cảnh giác nhất định vào ban đêm, nhưng khi tia nắng đầu ngày rọi xuống, họ thả lỏng và nghĩ, "Thật tuyệt ! Vậy là không có chuyện gì xảy ra." Lính gác rời trạm gác, lui về quân doanh. Ăn sáng xong quay lại thì chỉ trong nháy mắt, hàng trăm binh sĩ do Jimsa chỉ huy đã trèo qua, chiếm lấy bức tường cao nhất, nơi đặt cổng thành và mở cổng từ bên trong. Họ thắng một cách đơn giản mà không cần chiến đấu.
Vua Kalhana, người đang ở thủ đô Herat đã vô cùng sửng sốt khi hay tin quân Pars kéo sang.
"Kéo quân từ phương bắc, không ngờ thằng nhãi xứ Pars kia tài giỏi như vậy." Phải rất lâu sau ông ta mới thốt nên lời.
Vua Kalhana không sao hiểu nổi vì sao quân Pars thông thạo địa lý nước mình như thế. Sau khi băng qua biên giới Turan và Turk, họ chẳng những không lạc mà còn đánh thẳng vào nơi hiểm yếu nhất.
Điều này đương nhiên là do vị tướng trẻ Jimsa của Turan đảm nhận nhiệm vụ tiên phong. Vua Kalhana không nghĩ tới điều đó. Bản thân ông ta cũng thuê lính Turan để tấn công Sindhura, nhưng không nghĩ kẻ khác có thể làm tương tự.
Vua Kalhana vừa đi từ phòng làm việc trên gác mái xuống phòng nghị sự đã nghe thấy tiếng bàn tán nháo nhào của các tướng lĩnh và các viên thư ký. Ông ta nghĩ bụng.
"Cái tên nhãi vua Pars đó đúng là một kẻ liều lĩnh. Hắn thực sự có thể vượt qua hai nước Turan và Turk. Không thể đánh giá thấp hắn được." Hành trình lần này của Arslan ước tính kéo dài 400 farsang theo đơn vị đo của Pars, tới một đất nước xa lạ vào mùa đông, gặp nhiều điều kiện bất lợi, nhưng đội quân Pars vẫn di chuyển với tốc độ đáng báo động. Ngày mai, họ có thể tấn công vào thủ đô Herat nằm trong thung lũng. Các quan đại thần của nhà vua không giấu được sự bất an.
"Bệ hạ, chúng ta nên làm gì đây?"
"Xin người ra chỉ thị."
Các đại thần và tướng lĩnh đều nhất nhất xin chỉ thị từ nhà vua. Vua Kalhana trải bản đồ Turk lên mặt bàn gỗ mun, dùng ngón tay chỉ ra sáu lối vào thung lũng Herat, cũng là những cửa ngõ kết nối họ với thế giới bên ngoài.
"Không một tên lính Pars nào được phép xông qua cổng vào hẻm núi. Triển khai 5000 lính canh ở mỗi cổng, theo dõi chặt chẽ hành động của chúng. Bất cứ sự vụ nhỏ nào cũng phải báo cáo ngay lập tức." Sau khi nhận lệnh, các tướng lĩnh vội vã rời đi. Vua Kalhana một tay vuốt chòm râu đen nhánh, không ngừng nhìn chằm chằm tấm bản đồ với vô số suy nghĩ trong đầu.
"Narsus? Hóa ra là hắn..."
Vua Kalhana càu nhàu. Khi ông ta còn là phó vương, Turk từng liên minh với Sindhura và Turan để tiến hành một cuộc xâm lược Pars trên quy mô lớn với lực lượng lên tới 50 vạn quân. Dường như ngay cả Pars cũng không đủ mạnh để chống trả. Đúng lúc này, một kẻ vô danh tiểu tốt gọi là Narsus đã gia nhập quân Pars. Chỉ vài ngày sau, liên quân 3 nước tan rã, không còn cách nào ngoài quay về cố quốc trong sự căm giận.
Thất bại này gây hoang mang trong triều đình, giúp Kalhana củng cố quyền lực của mình, cuối cùng giành được ngai vàng. Điều này khiến Kalhana cực kỳ để tâm đến Narsus và luôn đề phòng anh ta. Hiện giờ, quân Pars đang tiến về phía nam ở mạn đông của Herat. Nếu lực lượng phòng thủ phía tây suy yếu, kẻ địch có thể lợi dụng nên phải tăng cường canh gác mọi hướng.
Chẳng bao lâu sau, cả thung lũng Herat đã hình thành một pháo đài khổng lồ, được bao quanh bởi những vách đá dựng đứng. Đúng như tên gọi, pháo này này không thể phá hủy, nhưng liệu có thể chống trọi trước sự tấn công dữ dội của quân Pars nổi tiếng hùng mạnh bao nhiêu năm nay không? Quân Pars không những có thể chiếm mà còn có thể đánh bại quân đội Turk. Thật ra đây không phải vấn đề nan giải. Họ có thể rút vào thật sâu bên trong thung lũng để ẩn nấp, chờ đến khi kẻ địch từ bỏ. Tuy nhiên, vua Kalhana không sao nuốt trôi cục tức này.
Triều đại của vua Kalhana khá ổn định nhưng chỉ là khi ông ta còn sống thôi. Hiện ông còn chưa có người kế vị, cũng không có ai san sẻ quyền lực với nhà vua. Kalhana là kẻ độc tài và hay hiềm tị, ông ta thậm chí không phong ai làm tể tướng mà tự mình nhận nhiệm vụ đó. Mọi công việc nội bộ, ngoại giao, an ninh, quân sự hay thậm chí là việc vặt trong cung điện cũng kiểm soát tuyệt đối. Ông ta là người trực tiếp ra lệnh cho các quan chức chuyên trách.
Lý do nhà vua không định ra người kế vị vì ông ta còn do dự giữa vài ứng viên. Sindhura cũng rơi vào tình cảnh này 5 năm về trước, nhưng Kalhana thì khác vì ông ta thậm chí còn không có ai để chọn lựa. Ông ta có nhiều thê thiếp, không đặc biệt sủng ái ai, và có tới 10 người con nhưng vì lý do nào đó mà chỉ toàn con gái. Con gái lớn nhất mới 15 tuổi, còn đang chờ thành niên. Khi cô kết hôn, chồng cô sẽ là ứng cử viên đầu tiên để thừa kế ngai vàng. Quan lại trong triều bàn tán rất nhiều về điều đó nhưng vua Kalhana không bày tỏ quan điểm gì.
Khi vua Kalhana đổi ý và ra lệnh phát động tấn công, các quan chức và tướng lĩnh đều nghe theo, trừ vài kẻ chống đối từ trước.
"Mục đích của quân Pars không phải là chiếm Herat mà là tấn công đội quân mặt nạ, giải quyết tình trạng hỗn loạn của Sindhura. Chỉ cần họ chặn đường và cố thủ ở thung lũng, Pars sẽ chủ động rời đi." Người đưa ra ý kiến này là em họ Kalhana tên là Kadefisis.
Vua Kalhana nhìn chằm chằm vào mắt ông ta, "Nếu cứ ngồi yên, hoàng tử Hilmes sẽ bị tập kích phía sau lưng, và đội quân mặt nạ sẽ bị diệt."
"Hắn chỉ là một tên hoàng tử lưu vong mà thôi." Kadefidis khinh bỉ nói. "Nếu có người phát hiện Turk đứng sau chống lưng cho hắn thì sự tình sẽ rất phức tạp. Chẳng phải cứ dùng quân Pars để giải quyết mối họa này luôn có tốt hơn không?"
Vua Kalhana chỉ lạnh lùng phản bác, "Nếu bỏ rơi hoàng tử Hilmes thì Turk sẽ không nhận được sự giúp đỡ từ nước nào trong tương lai nữa, vì họ cho rằng Turk sẵn sàng bỏ rơi họ khi lâm vào cảnh khốn khó. Nhiệm vụ của nhà vua là giữ lấy thể diện quốc gia." Thực ra vua Kalhana có ý đồ xấu xa khác. Lý do ông ta không vứt bỏ Hilmes không liên quan gì đến tín nghĩa mà chỉ là bàn đạp để hướng tới mục tiêu thống trị toàn lục địa. Vậy nên việc bo bo giữ mình trước những bất lợi nhất thời sẽ không khiến tham vọng của ông thành hiện thực.
5 vạn quân Turk được bố trí tại biên giới Turk và Sindhura. Nếu quân Pars đánh từ phía đông, họ sẽ tiến về phía nam để chặn đường rút lui. Tuy nhiên, quân sư Narsus đã đoán được động thái này. 5 vạn quân ấy có trình độ khác hẳn 3000 quân đóng ở biên giới phía bắc. Họ là lực lượng vũ trang tinh nhuệ. Vua Kalhana lệnh cho đội quân này khởi hành từ thủ đô Herat, đón đầu quân Pars đang nam tiến và tiêu diệt bọn họ.
Kết quả là hai bên đã đụng đô nhau một trận khốc liệt ở biên giới phía nam của Turk. Trận chiến mang tên "Trận thung lũng Zaraflic."
-----------------------------------
5 vạn quân Turk tạo thành đội hình dày đặc, lấp kín con đường. Chiều rộng mặt đường là 20 gaz theo đơn vị đo lường của Pars. Người Turk cầm giáo dài và khiên, tạo nên những tiếng ồn lớn. Vì không thể phân tán ra hai bên trái phải nên đội hình quân dày san sát. Dù quân Pars có dũng cảm xông vào, bức tường sắt từ khiên và giáo sẽ chặn từng lớp, không cách nào phá được vòng vây. Hai quân đối mặt nhau, cách nhau 150 gaz. Một tướng tên Delani chỉ huy quân Turk cưỡi ngựa lên trước.
"Lũ chó Pars các ngươi chỉ biết vẫy đuôi trước tên hôn quân. Sao lần này dám cả gan xâm phạm biên giới chúng ta?" Ông ta lăng mạ quân Pars trên lưng ngựa nhưng không kịp hối hận về sự bất cẩn của mình. Farangis kéo căng dây dung, mũi tên lao đi không một lời cảnh báo. Tia sáng bạc phóng như bay về phía quân Turk, và tướng Delani ngã lăn khỏi lưng ngựa.
Quân Turk rơi vào trạng thái im lặng chết người. Bọn họ có chút hoảng sợ.
Tiếng hô quân lệnh dần truyền đi. Bởi đội hình quá dài, chẳng khác gì con rắn trườn trong khe núi chật hẹp nên việc truyền lệnh không hề dễ dàng. Hàng trên muốn lui nhưng hàng sau muốn tiến, kết quả là va chạm, xô đẩy lẫn nhau.
"Bình tĩnh ! Không được hoảng sợ."
Những vị tướng cố hết sức an ủi quân lính của mình. Lúc này, một mùi hôi kỳ lạ bốc lên. Hàng trăm vật thể có hình thù như một quả cầu đen với cái đuôi rực lửa bay tới. Ngay khi chạm đội hình địch, nó lập tức phát nổ, kéo theo một lượng khói đen khổng lồ bốc mùi nồng nặc. Những quả cầu đó được nhào từ bột lưu huỳnh, than bùn cùng vài loại cỏ dại chứa chất độc.
Quân Turk không thể kháng cự, tiếp tục rút lui. Khói lưu huỳnh không chút thương tiếc, bay vào mắt, mũi và cổ họng. Quân lính ho đến rơi nước mắt, hắt hơi, hoàn toàn mất khả năng chiến đấu.
Sau trận chiến hôm ấy, phe Turk thiệt hại 5000 người trong khi Pars chỉ có 20 người bị thương, không người tử vong. Trận chiến một chiều vô tiền khoáng hậu trong lịch sử lục địa.
Gặp khó khăn lớn, quân Turk toàn bộ rút về căn cứ trên đường núi. Ba lớp cọc gỗ được đóng bên ngoài, nhằm cản bước tiến kỵ binh Pars. Bọn họ ẩn nấp trong đó, triệu tập tướng lĩnh, tổ chức hội nghị bàn chiến lược.
"Nhất định không thể tha cho chúng. Ta sẽ cho bọn Pars khốn kiếp đó thấy chúng ta mạnh như thế nào." Câu nói của tướng Singh bị ngắt quãng liên tục vì ho và hắt hơi, không có âm thanh nào trọn vẹn.
"Những tên xảo trá đó lúc nào cũng chỉ biết dựa vào thủ đoạn hèn hạ. Ngài nói đúng, không thể bỏ qua cho chúng." Tướng Dugula đáp, nước mắt vẫn còn chảy ròng ròng do nhiễm khói, giờ đang dùng khăn tay vải lanh xứ Mirs nhúng nước để chườm lạnh. Niêm mạc mũi của tướng Brayag thì bị khói làm cho hư hại, máu mũi nước mũi cứ thế trào ra. Do không thể thở bằng mũi, hắn phải há mồm nằm trên tấm da dê nghỉ ngơi. Thái độ của bọn họ đều cực kỳ nghiêm túc nhưng ắt hẳn người Pars đang âm thầm chế nhạo.
Chính người Turk cũng nhận thấy hoàn cảnh khó coi của bản thân nên mới càng tức giận.
"Tóm lại, chúng ta sẽ không thua bọn Pars!"
"Đúng thế, đúng thế."
"Đây đâu phải là thất bại? Chúng ta còn chưa bắt đầu chiến đấu cơ mà?"
"Nếu đối đầu sòng phẳng, sao chúng ta thua lũ khốn đó được."
"Phải. Ta sẽ chôn xác chúng trong thung lũng này." Ai nấy đều bùng lên lòng kiêu hãnh mạnh mẽ giữa những tiếng ho, hắt hơi vài xì mũi. Nhưng thực tế khắc nghiệt hơn họ tưởng. Tinh thần chiến đấu hừng hực không giúp họ nghĩ ra cách đối phó với "Bọn Pars hèn hạ." Mất lợi thế về địa lý, quân Turk nên triển khai thế nào tiếp theo đây?
"Kalhana bệ hạ không cho phép ta thất bại. Ta tin các vị đều đã thấy số phận của tướng Gurab rồi." Singh nghiêm túc nói. Năm ngoái, khi bọn họ bị liên quân Pars và Sidhura đánh bại ở Cổng sắt, bại tướng Gurab bị kết án tử hình tại cung điện, chết dưới tay một nhóm thiếu niên, đều là con của những người lính tử trận dưới trướng ông ta. Nghe nói thi thể tướng Gurab có tổng cộng 80 nhát đâm. Các tướng lĩnh Turk không ai là kẻ hèn nhát nhưng cứ nghĩ đến mình sẽ chết như vậy, họ lại ớn lạnh sống lưng. Thà chết trên chiến trận, ít ra còn lấy được vài đầu địch, chứ không thể chết thế này.
"Đột kích vào ban đêm thì sao?"
Dugula đề nghị, dụi đôi mắt đỏ ngầu. Quân Pars chắc hẳn sẽ thả lỏng một chút sau trận chiến quá đỗi dễ dàng ban nãy. Quân Turk nằm ở hướng gió, tuy nhìn có vẻ bất lợi nhưng thực ra cũng có điểm mạnh là phía bên kia sẽ không nghe thấy tiếng ồn. Tối nay, những binh lính tinh nhuệ sẽ đột nhập vào doanh trại Pars, tấn công bất ngờ. Đó là biện pháp tốt nhất.
"Ý tưởng này rất hay nhưng chắc chắn Pars cũng có sự chuẩn bị, sợ rằng mọi chuyện sẽ không suôn sẻ như thế."
"Nhưng đâu có cách nào tốt hơn ra tay trước?"
"Được rồi, ngài nói phải. Vậy chúng ta sẽ đột nhập vào, giết vua Pars và kết thúc toàn bộ trận chiến." Singh đứng dậy, chuẩn bị ra lệnh điều quân thì bất chợt, nửa mặt bên trái hắn ta đỏ bừng. Ngay sau đó, hắn hét lên bằng tiếng Turk.
"Quân Pars tấn công bằng hỏa lực!"
Các vị tướng khác liền cầm kiếm đứng dậy, ra khỏi trại.
Quân Turk buộc phải bỏ chạy tứ tán bởi lửa. Ba hàng công sự gỗ cũng cháy dữ dội. Hàng trăm hàng ngàn mũi tên với đầu bọc lửa bắn ra từ phái bên kia. Ánh sao trên trời cũng bị lửa trên mặt đất lấn át. Làn khói dày đặc chồng lên nhau, không phân biệt được sáng với tối.
Ba hàng rào công sự sụp đổ, và đó là tất cả những gì ngăn quân Pars tiến bước. Những cơn gió dữ gầm lên, lửa cháy điên cuồng. Lẫn trong tiếng hú của gió đêm là tiếng vó ngựa rầm rập.
"Không được hoảng sợ! Chĩa mũi giáo về phía quân Pars! Không có gì phải sợ lũ kỵ binh Pars hết!" Tướng Singh đưa ra chỉ thị chuẩn xác nhưng tiếc là không nghe thấy. Người lính truyền tin đã bị hiệp sĩ áo đen của Pars bắn tên giết chết trong lúc hỗn loạn.
"Hết cách rồi. Tạm thời chúng ta cứ rút sang lãnh thổ Sindhura, tổ chức lại lực lượng ở đó rồi hãy trả thù Pars." Nghe quyết định của tướng Singh, binh lính Turk đáp lại bằng những tiếng ho và hắt hơi. Họ rút chạy, thoát khỏi khe núi đầy rẫy chết chóc và tủi nhục. Một nửa trong số họ thậm chí còn bỏ vũ khí lại để chạy lấy mạng. Miễn có thể trốn thoát, họ không ngần ngại giẫm đạp lên đồng đội đã ngã xuống của mình. Nơi này không có chỗ cho đạo đức lên tiếng. Sau lưng bọn họ lúc này đã là khói lửa mịt mù cùng mũi tên ngọn giáo của quân Pars.
Khi bình minh ló rạng, cuộc truy đuổi kết thúc. 50 lính Pars thiệt mạng giữa trận hỗn chiến nhưng số thương vong của quân Turk cao hơn đến 200 lần. Cuối cùng chỉ có 3 vạn 5 ngàn quân trốn được vào lãnh thổ Sindhura. Họ bỏ lại vũ khí lương thực, sức chiến đấu giảm đi đáng kể.
Arslan ngồi trên lưng ngựa, nhìn chiến trường tan hoang đầy khói. Chàng động viên, khen ngợi các binh lính đã chiến đấu dũng cảm.
"Mọi chuyện diễn ra đúng như kế hoạch của Narsus." Kể từ khi quen biết, nhiều năm nay Arslan vẫn luôn rất ngưỡng mộ chiến lược gia của mình. Anh ta thao túng hoàn toàn vua Kalhana dù đối phương ẩn mình ở tận cung điện Herat. Vua Kalhana quả nhiên không thể nào ngồi yên để mặc quân Pars đi qua lãnh thổ Turk, cho nên đã phái quân đóng ở biên giới Sindhura hòng chặn đường. Tất cả không qua được mắt vị họa sĩ cung đình.
Chiến dịch "Nửa vầng trăng của Arslan" đã được Narsus tính toán và thực hiện không sai một ly, nhằm đảm bảo chiến thắng cho Pars. Ngay khi vua Kalhana hành động, phe Pars đã cầm chắc phần thắng trong tay rồi.
"Vua Kalhana cũng là kẻ xảo quyệt. Sau khi nhận ra tìn thế bất lợi của phe mình, chắc ông ta sẽ phản ứng ngay thôi."
"Ông ta sẽ làm gì, Narsus?"
"Ví dụ như...."
Narsus bắt đầu giảng giải. Đầu tiên, nếu muốn giành chiến thắng ở hẻm núi Zaraflic thì cần phải đứng xuôi hướng gió. Như Pars đã làm ban nãy, họ phóng hỏa và bắn tên lửa từ đầu hướng gió. Nhưng để sử dụng chiến lược này thì phải tấn công từ phương bắc. Vua Kalhana hẳn sẽ mở cổng bắc ở lối vào thung lũng Herat, âm mưu chờ Pars tiến về phía nam thì ông ta sẽ đánh lén sau lưng.
"Quá nguy hiểm. Narsus, ngươi định làm cách nào để chống lại?"
"Điện hạ có ý kiến gì không?"
Narsus hỏi lại. Arslan ngồi trên lưng ngựa, ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp, "Không cách nào chống lại gió mạnh trong khe núi. Chúng ta chỉ có thể lập tức đi qua lãnh thổ Turk, sang lãnh thổ Sindhura."
"Bệ hạ sáng suốt." Narsus mỉm cười gật đầu.
Trong khi bàn kế hoạch tiếp theo, Dariun nói, "Sang đến Sindhura rồi, có thể chúng ta sẽ lại đụng độ quân Turk sớm thôi."
"Vậy thì xui cho chúng."
Lúc này, nụ cười của Narsus vừa sắc bén vừa tàn ác. Quân Turk bỏ lại lương thực để bỏ chạy, ẩn náu tại Sindhura, nhưng vùng lãnh thổ này trước đó đã bị đội quân mặt nạ cướp phá sạch sành sanh rồi. Hơn 3 vạn quân không có lương thực, chỉ đành nhịn đói. Vị quân sư đã lường hết tất cả.
-----------------------------
Sau khi nhận tin bại trận, vua Kalhana tức giận ném chén rượu bạc xuống đất trong khu vườn treo của cung điện. Xem ra sắp có thêm vài vị bại tướng phải lĩnh án tử hình.
Quân Pars dễ dàng đánh tan quân Turk, tiến về phía nam với tốc độ phi thường, tựa như đại bàng từ trời cao giang đôi cánh, sà xuống con mồi trên mặt đất. Mà lúc vua Kalhana hay tin, đội tiên phong của Pars đã ở trên đất Sindhura.
Vua Kalhana không có thời gian hối hận trước thất bại của mình, ông ta buộc phải ra quyết định. Có nên tiếp tục ẩn náu trong thung lũng bất khả xâm phạm Herat này và gặm nhấm mối căm hờn, để quân Pars ngang nhiên tiến đến Sindhura hay không? Hay là dùng quân đánh lén sau lưng trong khi bọn họ xuôi về phương nam.
Có 12 vạn 5 ngàn quân đóng tại thung lũng Herat. Không cần đề phòng Turan ở phương bắc nữa nên họ có thể huy động tới 10 vạn.
"Không thể ngồi yên chờ chết."
Vua Kalhana lẩm bẩm, một tay vuốt ve tượng đầu sư tử bằng đồng ở góc phòng. Cận thần và người dân không yêu mến ông ta, họ chỉ tôn kính và sợ hãi ông ta như một kẻ độc tài dù hà khắc nhưng có năng lực. Nếu chấp nhận thất bại ở Zaraflic, sự kính sợ của dân chúng với vua Kalhana sẽ lung lay, ngai vàng cũng bất ổn.
"Bọn họ không chỉ thua Pars mà còn tự ý vượt qua biên giới Turk. Quân đội thì vô dụng mà nhà vua thì bất tài." Những kẻ âm thầm xúc phạm quốc vương sẽ bị xử cắt lưỡi nhưng làm sao ngăn được lời ong tiếng ve.
Vua Kalhana suy nghĩ một hồi. Sau đó, ông ta rung chiếc chuông đồng trên bàn để gọi người hầu cận, ra lệnh triệu tập lãnh chúa Kadefisis, một quý tộc đã từng khuyên vua Kalhana hạn chế các cuộc tấn công Pars. Người này sống trong dinh thự của một vị quan địa phương cách xa Herat, mỗi năm chỉ vào thung lũng Herat một lần để tỏ lòng thành kính với nhà vua, chào hỏi các quý tộc khác, mua đồ quý từ các thương nhân nước ngoài và giải quyết vài việc liên quan đến tranh chấp đất đai, thuế má....Đó cũng là đời sống điển hình của giới quý tộc Turk. Ngay khi được gọi, Kadefisis đến quỳ trước mặt nhà vua. Vua Kalhana lên tiếng trước.
"Ta muốn cảm ơn ngươi về những món quà."
"Thần lấy làm sợ hãi, thưa bệ hạ." Kadefisis là con trai của chú của vua Kalhana. Tuy là anh em họ nhưng tuổi tác họ chênh lệch như cha con. Kadefisis tròn 30, cao lớn oai nghiêm, lông mày và bộ ria mép màu nâu nhạt được cắt tỉa gọn gàng, có thể nói là người đàn ông chải chuốt nhất trong giới quý tộc Turk. Tiếc rằng năm ngoái hắn không có cơ hội gặp Gieve, vị sứ thần Pars. Nếu không, chắc bọn họ đã ghét nhau ra mặt.
Nếu có ai ở Turk không biết sợ vua Kalhana thì đó là Kadefisis. Ai ai cũng cố hết sức tuân theo mệnh lệnh của nhà vua trong khi Kadefisis thì khác hẳn. Hắn ăn nói cư xử lịch thiệp nhưng lại thường xuyên lên tiếng phản đối các quyết sách. Lần này cũng thế, hắn không ủng hộ tấn công Pars.
Vua Kalhana bảo hắn đứng dậy.
"Ngài Kadefisis, cho ta hỏi thẳng, ngài có muốn ngai vàng của Turk không?" Đây là một câu hỏi quá sức bất ngờ mà nếu trả lời tùy tiện, có thể sẽ mất luôn cái đầu. Vì vậy, Kadefisis thận trọng đáp.
"Đương nhiên thần sẽ nhận trách nhiệm nếu có cơ hội, nhưng..."
"Nhưng cái gì?"
"Thần không muốn tốn sức vì nó, chỉ muốn đối phương tìm đến mình. Đó là cách theo đuổi một người phụ nữ." Kadefisis mỉm cười, muốn đổi chủ đề nhưng vua Kalhana lại lạnh lùng chất vấn.
"Ngài có bao nhiêu tình nhân? Năm hay sáu?"
"Người biết rõ mà, cả thảy 5 người. Có vấn đề gì không ạ?"
"Dọn dẹp mớ lộn xộn xung quanh ngài đi. Con gái quốc vương không thể chung chồng với kẻ khác." Kadefisis cau mày. Chẳng phải chồng của con gái cả của nhà vua sẽ trở thành người thừa kế ngai vàng sao, hoặc chí ít cũng là ứng viên sáng giá nhất. Hai người còn là họ hàng xa, tuổi tác cũng vừa xứng.
Sau đó, trong đầu Kadefisis liền hiện lên hình ảnh cô con gái cả của vua Kalhana. Cô giống hệt cha mình, cao, ngăm đen, vóc dáng gầy gò, nói thẳng ra là không đẹp. Tuy không rõ tài năng tính cách cô thế nào, nhưng có ngai vàng là của hồi môn thì dung mạo không thành vấn đề. Tận đáy lòng Kadefisis hết sức vui mừng nhưng cũng cảm thấy có gì mờ ám. Hắn biết với tính cách của anh họ mình, ông ta lạnh lùng đến sắt đá và bị ám ảnh bởi tham vọng quyền lực.
"Ta chỉ muốn kiểm tra phẩm chất của ngài. Nếu đạt được kết quả ưng ý, ta sẽ ban cho ngài phần thưởng cao quý nhất." Ý nói là có điều kiện.
Quả nhiên là vậy, Kadefisis thầm nghĩ. Vua Kalhana vuốt ve chòm râu dài, tự hỏi không biết hắn có phát hiện ra điều gì bất thường không, hay là biết mà vờ như không biết.
"Lũ người Pars đáng ghét đã đi khắp lãnh thổ của ta một cách ngang ngược, giờ đang hành quân đến Sindhura. Lẽ ra ta có thể đuổi chúnh đi nhưng không thể quá nặng tay, ảnh hưởng đến uy tín quốc gia của Turk."
"Là uy tín của riêng bệ hạ mà thôi."
Kadefisis không nói ra những lời này, chỉ im lặng lắng nghe một cách kính cẩn. Vua Kalhanan nói tiếp, "Vậy nên ta lệnh cho ngài lập tức đến Sindhura, tấn công quân Pars. Ta và công chúa sẽ cùng cầu nguyện cho ngài thắng trận khải hoàn.
Kadefisis nuốt nước bọt, "Đây chỉ là khẩu lệnh thông thường thôi sao?"
"Ngài muốn ta thay bằng chiếu chỉ của hoàng gia?"
"Nếu là chiếu chỉ, thần xin lĩnh nhận?"
Dù Kadefisis xưa nay luôn cẩn trọng trong mỗi hành động nhưng lần này anh ta buộc phải nói.
"Quân đội cần được tổ chức lại cho cuộc viễn chinh tiếp tế đến Sindhura sắp tới. Vậy chẳng phải sẽ gây thêm gánh nặng cho quốc khố ư?"
"Ta không yêu cầu ngài đem quân đến Sindhura mà là cầm quân sau khi đến được Sindhura." Nhà vua trả lời một câu mà Kadefisis không sao hiểu nổi. Hắn dò xét một hồi, sau đó vua Kalhana mới giải thích.
"Cuộc viễn chinh của tướng Singh đã thất bại. Ông ta bị quân Pars đẩy lui và buộc phải trốn sang Sindhura. Bên ông ta còn ít nhất 3 đến 4 vạn quân. Ngaig phải chỉ huy ông ta với cách là thống chế, chiến đấu chống quân Pars." Kadefisis không nói nên lời trong khi vua Kalhana tiếp tục, "Ngài không cần mang theo người lính nào cả, ngày mai hãy lên đường đến hội quân với Singh." Tốt hơn hết là Kadefisis đoàn kết được lực lượng tàn quân của Turk, đánh bại quân Pars. Còn nếu không, cùng lắm là hắn và Singh cùng chết dưới tay quân địch. Nếu Kadefíisis chiến thắng trở về như một người hùng, đồng thời đe dọa đến quyền lực của vua Kalhana thì cần tìm cách tiêu diệt hắn. Trong trường hợp không may Kadefisis không đủ khả năng thì Kalhana chỉ mất đi một ứng viên thừa kế ngai vàng chứ chẳng thiệt hại gì nhiều.
"Đừng tưởng mọi chuyện sẽ như ông tính toán. Mơ mộng hão huyền. Ông có kế hoạch của ông, ta cũng có kế hoạch của ta để tránh nguy hiểm trong tương lai." Kadefisis quỳ trên mặt đất, nghĩ thầm trong bụng.
"Thành thật mà nói, mệnh lệnh của người có phần khắc nghiệt. Nhưng với tư cách là quan chức triều đình, thần không có quyền ý kiến. Thần sẽ lập tức chuẩn bị đến Sindhura, dốc lòng báo đáp sự tin tưởng của bệ hạ." Herat không còn là nơi thích hợp để ở lâu dàu nữa. Nếu cứ nhẫn nhịn mãi thì cuối cùng cũng sẽ có ngày bị buộc tội là bất tuân chiếu chỉ của nhà vua rồi bị đem xử tử thôi. Giờ là lúc phải từ bỏ cuộc sống an nhàn của một quý tộc tầm thường rồi.
Vua Kalhana nheo đôi mắt sắc bén nhìn Kadefisis trên mặt đất, cái nhìn tựa như muôn mũi kim đâm xuyên. Cuối cùng, ông ta nhếch khóe miệng.
"Ta hết sức mong chờ chiến tích của ngài, người em họ trung thành của ta."
Vậy là vị lãnh chúa quý tộc người Turk tên Kadefisis đã đặt chân lên hoang mạc bị tàn phá bởi chiến tranh, cướp bóc chỉ 5 ngày sau khi quân Pars tiến vào lãnh thổ Sindhura.
Tháng 2 năm 325 lịch Pars, vua Arslan của Pars dẫn đầu đội quân 2 vạn binh sĩ lên đường tham chiến. Tể tướng Lucian và eran Kishward ở lại kinh đô. Những người lính ưu tú nhất sẽ vượt qua biên giới phía đông để trợ giúp nước láng giềng Sindhura. Bởi cách đây ít lâu, Sindhura bị tấn công bởi một đội quân đeo mặt nạ bí ẩn từ khu vực miền núi phía bắc và cầu Pars chi viện.
Vua Rajendra đệ nhị là bạn, người anh em thân thiết của vua Arslan xứ Pars, điều này được ghi lại trong sử sách Sidhura nhưng lịch sử Pars thì kém nhiệt tình hơn. Chẳng những không có lời ca tụng nào dành cho tình bạn này, mà nhiều binh sĩ còn nhận xét về vị vua láng giềng với lời lẽ gay gắt.
"Lại là tên vua Sindhura đó. Có mỗi cái chuyện biên giới cũng giải quyết không xong, lần nào cũng nhờ chúng ta cứu viện." "Vậy hóa ra chúng ta thành lính đánh thuê của Sindhura à?" "Lính đánh thuê còn phải bỏ tiền ra chiêu mộ, còn chúng ta làm cho họ không công. Có lẽ nên dạy cho tên vua vô liêm sỉ đó một bài học để sau này hắn tự mình đối đầu khó khăn đi." Dù đâu đó có những tiếng phàn nàn nhưng khi vị vua 18 tuổi đã ra lệnh, không người Pars nào bất tuân. Hơn nữa, nếu bị bỏ lại hậu phương thì họ chỉ càng thêm bất mãn bởi những người lính Pars tin rằng không ai thiện chiến hơn mình. Dưới ngọn cờ của vua Arslan, họ chưa từng nếm mùi thất bại.
Theo ý nguyện của Arslan, người chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược lần này vẫn là phó tể tướng Narsus, vị cố vấn quân sự tài ba nức tiếng. Khi nhận được lời cầu viện từ Sindhura, anh liền trải một tấm bản đồ lớn trước mặt nhà vua và giải thích.
"Không cần phái quân tới Sindhura đâu. E là quân chính quy của Turk đã tập trung ở biên giới phía nam, chuẩn bị sẵn sàng, chờ chúng ta tới Sindhura rồi."
Arslan gật đầu, "Ra vậy. Khi quân đội chúng ta vượt sông Kaveri, bước vào lãnh thổ Sindhura thì họ sẽ lập tức nam tiến, cắt đứt đường viện trợ của ta phải không?"
Narsus có vẻ hài lòng. Vì là thầy của vua Arslan nên anh đương nhiên rất mừng khi hiểu biết quân sự của học trò mình ngày một sâu sắc.
"Tuy nhiên, để đột kích vào đất Turk, chúng ta buộc phải đối đầu với địa hình đồi núi hiểm trở cùng đội quân được rèn luyện chính quy, không dễ gì chiến thắng." Dariun nêu quan điểm. Vị mardan của các mardan, kỵ sĩ áo đen này là huyền thoại về lòng dũng cảm ở Pars, trẻ con nghe tên anh ta liền nín khóc. Cũng có giai thoại nói rằng hễ nhắc đến vị "họa sĩ cung đình Pars" thì trẻ con đang khóc sẽ bật cười. Lý do thì chẳng ai biết được.
"Ngươi nói đúng, nhưng yên tâm, chúng ta có thể đến Sindhura thông qua lãnh thổ Turan."
"Qua Turan?"
Arslan vô cùng kinh ngạc, sau đó liền hiểu ra. Dù kế hoạch của Narsus hết sức khác thường nhưng lại hợp lý. Theo suy đoán của Narsus, giả sử đội quân mặt nạ hiện đang xâm chiếm Sindhura toàn là chiến binh Turan thì hẳn nước họ lúc này ở trạng thái trống rỗng, và sự tấn công của Pars sẽ không gặp phải kháng cự nào.
"Đi qua Turan chẳng khác nào đi ngang vùng lãnh thổ hoang vu không người ở, như thế sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Đặc biệt với Jimsa là tướng tiên phong, việc hành quân sẽ còn thuận tiện hơn nữa." Jimsa vốn là người Turan nhưng hiện giờ phụng sự dưới quyền Arslan.
"Được, cứ làm theo kế hoạch của Narsus."
Elam nói xong liền nhận ra một điều. Khi quân Pars đi qua lãnh thổ Turan và Turk thì phải đưa ra lời giải thích chính đáng.
Narsus trả lời.
"Giả sử Turk khẳng định không liên quan đến đội quân mặt nạ kia, thì đội quân mặt nạ chính là một lũ côn đồ tấn công vì mục đích cướp bóc, tàn sát dân lành. Chúng ta chiến đấu chống lại chúng, bảo vệ lẽ phải. Thế thì Turk phải vui mừng cho chúng ta đi qua đất họ mới đúng." Narus biết lý thuyết này rất xa vời nhưng đủ nằm trong phạm vi ngoại giao. Với một vị vua xảo quyệt và tàn nhẫn như Kalhana của Turk thì việc mù quáng bám vào công lý sẽ chỉ gây bất lợi cho mình.
Vậy là Arslan triệu tập Gieve, người vừa quay về từ Turk. Anh ta từng trực tiếp đối thoại với vua Kalhana.
"Gieve, anh nghĩ tính cách vua Turk thế nào?"
Nghe câu hỏi của nhà vua, Gieve cong khóe miệng đáp.
"Bệ hạ, hắn là một tên phiền thoái đấy."
Arslan chớp mắt, và Narsus bật cười lớn. Ngày xưa, trước khi Rajendra đệ nhị lên ngôi, Narsus cũng từng mượn danh vua Turk để đàm phán. Khi ấy, Rajendra lộ rõ vẻ khinh thường và nói "Ta chưa từng nghe vua Turk là người hào hiệp bao giờ." Có vẻ như Gieve và hắn ta có chung quan điểm rồi.
Nhờ báo cáo của Gieve, triều đình Pars xác nhận đội quân đeo mặt nạ có mối quan hệ mật thiết với vua Turk. Bởi khi Gieve cùng đoàn của mình rời Turk, họ đã đối đầu đội quân này và tận mắt trông thấy tấm mặt nạ bạc. Điều đáng thắc mắc là kẻ chiến đấu với Gieve bất phân thắng bại khi ấy có đúng là hoàng tử Hilmes, thành viên hoàng tộc cũ của Pars.
Gieve đã rất cẩn trọng khi lựa lời báo cáo về vụ việc.
"Cả kỹ năng chiến đấu lẫn năng lực cầm quân của hắn đều có thể sánh với hoàng tử Hilmes. Hắn chỉ huy quân lính rất có trật tự."
"Vậy sao?"
"Vâng thưa bệ hạ."
Gieve không dám khẳng định nhưng anh tin đến 8 phần. Trên đời này ít kiếm sĩ nào sánh ngang hoặc vượt qua anh, chưa kể đối phương còn dùng kiếm thuật của Pars.
"Ta biết ngay tên đó không hợp với cuộc sống an phận thủ thường mà."
Hilmes từng giết chú Vahriz của Dariun, tấn công Arslan hòng đoạt lấy ngai vàng. Nhưng khi hắn trốn khỏi đất nước, Dariun cũng quyết định từ bỏ mối thù. Có điều, nếu lần sau gặp lại trên chiến trường, chắc chắn bọn họ phải đấu một trận sinh tử.
Lúc này, Arslan đứng dậy khỏi ngai vàng, nói, "Lập tức chuẩn bị xuất quân, tiến về phương bắc và tới Sindhura thông qua lãnh thổ Turan." Sau đó, chiến dịch mang tên "Nửa vầng trăng của Arslan" bắt đầu được triển khai. Nguồn gốc cái tên này là do lộ trình quân Pars bắt đầu từ phía bắc kinh đô hoàng gia Ecbatana, sau đó vòng sang đông, tiến về phía nam, thành một hình bán nguyệt khổng lồ.
Trong khi Narsus chuẩn bị cho cuộc viễn chinh cùng vua Arslan, anh cũng ra chỉ thị cho hai tướng Kubard và Turk đóng quân tại thành Peshawar ở biên giới phía đông, vì quân Turk hẳn rất đề phòng quân Pars. Họ nhất định sẽ vượt qua sông Kaveri, tiến sang lãnh thổ Sindhura. Hành động "không phụ lòng mong đợi này" nhằm thu hút sự chú ý của chúng.
Đội quân mặt nạ đã vượt qua núi tuyết, tiến về phía nam đất Turk và đến Sindhura sớm hơn quân Pars một tháng. Dẫn đầu 1 vạn kỵ binh là Mặt nạ bạc, từng là hoàng tử Hilmes của Pars. Dưới sự chỉ huy của hắn, kỷ luật quân đội cao như núi.
"Những người không vượt qua ngọn núi nhỏ này thì phải chết. Ta không cần binh lính yếu ớt. Những người đi theo ta chỉ có một con đường, đánh thắng quay về." Người Turan cũng một mực tuân theo mệnh lệnh của Hilmes bởi họ đã tuyệt vọng rồi. Để nuôi sống bản thân và người thân ở quê nhà khỏi nạn đói, họ không có cách nào ngoài vượt qua núi tuyết vào mua đông để tấn công Sindhura. Đây là thảm họa từ trời rơi xuống với người Sindhura, nhưng người Turan không thể thông cảm.
Người Turan dọn tuyết trên đường núi, cắt băng để tiến về phía trước. Những vách đá cao vút dựng đứng hai bên đường, tạo thành lối đi cho những trận gió bắc ầm ầm thổi qua, đẩy lui người và ngựa. Thậm chí đã có vài người bị gió mạnh cuốn bay xuống vực. Thế là người Turan dùng dây thừng buộc vào nhau, giúp nhau vượt lên phía trước. Họ chống trọi với cái rét bằng cách hình dung ra vùng đất Sindhura trù phú và ấm áp đang chờ đợi. Cuối cùng, lòng kiên trì đã được đền đáp. Những đám mây tuyết trên đầu dần biến mất, lộ ra nền trời trong xanh và ánh nắng ấm áp như xuân. Một cánh đồng xanh tươi trải ra trước mắt.
"Nhìn kìa! Mảnh đất chưa từng trải qua băng tuyết của Sindhura đang ở ngay trước mặt chúng ta. Hãy cướp bóc bao nhiêu tùy thích!" Những chiến binh Turan bị Hilmes xúi giục lập tức hô vang, thúc ngựa lao đi trong tâm trạng gần như phát cuồng. Niềm vui khiến họ quên đi 15 ngày chật vật vượt đường núi.
Bi kịch của Sindhura bắt đầu từ đây.
------------------------
Dù vua Rajendra đệ nhị không được được người Pars tin tưởng nhưng hắn lại được người dân nước mình vô cùng yêu mến. Hắn không đưa ra nhiều chính sách cải cách nhưng hắn đặt thuế thấp, quan tâm đến việc bổ nhiệm quan địa phương, khen thưởng người có công, không để đời sống nhân dân khốn khó.
Khung cảnh bình yên của ngôi làng bên kia núi bỗng chốc bị phá hủy. Những nông dân đang trồng vụ lúa mì mùa đông trên cánh đồng nghe thấy tiếng mặt đất ầm ầm rung chuyển. Họ nhìn về phía bắc và thấy một đám bụi cát cuồn cuộn tới gần.
Ánh sáng phản chiếu lên tấm mặt nạ khiến họ sững sờ vì kinh hãi, nhưng chưa thốt lên được tiếng nào, đầu của một người đã bay lên với cái miệng há to.
Đây làm một lời chào đẫm máu. Và với những cái đầu thi nhau rơi xuống, làng quê Sindhura mất đi sự yên bình vốn có. Một đội quân vô danh đã truy giết những người chạy trốn. Ngọn lửa nhấn chìm các ngôi nhà và những cánh đồng lúa họ vất vả trồng cấy. Khói đen bốc lên ngùn ngụt. 500 binh sĩ đóng quân ở làng lân cận lập đến ứng cứu. Họ hoàn toàn bất lực khi đối đầu với đội quân mặt nạ kỳ quái này. Nhưng một người lính đã nhận ra đó là người Turan và báo với chỉ huy.
"Nhìn tư thế cưỡi ngựa, kỹ năng khiển ngựa và vung kiếm trên yên ngựa, có vẻ như chúng là quân Turan."
"Tại sao quân Turan lại tiến đánh từ lãnh thổ Turk? Có sai sót gì không? Chúng ta cần điều tra kỹ hơn."
Sự ngờ vực khiến quân Sindhura càng thêm lúng túng. Đội quân mặt nạ tàn sát, đốt phá không thương tiếc. Trong số 500 lính Sindhura, một nửa chết trận, một nửa xin đầu hàng nhưng vẫn bị xử chém. Chỉ có 3 người sống sót và chạy thoát. Họ trốn đến một thành phố tên là Gangbay để báo cáo tình hình nhóm quân xâm lược.
Thống đốc thành phố Gangbay là Palu, một công chức chịu trách nhiệm thu thuế và xét xử các vụ án dân sự chứ không phải tướng lĩnh chỉ huy. Dù đã tạm thời ra lệnh cho đội trưởng đội quân thành phố dẫn 800 người đi cứu viện, nhưng ông ta gục xuống khi hay tin toàn quân bị diệt. Lẽ ra, ông ta có thể đóng chặt cổng thành, cố thủ đến cùng nhưng ông ta do dự không biết có nên để nông dân vào thành lánh nạn không. Vài phút lưỡng lự ấy đã tạo điều kiện cho giặc xông vào. Ông cụ Palu bị đẩy từ thành cao xuống đất và chết. Toàn thành chìm trong cảnh giết chóc và cướp bóc.
Hành động của đội quân mặt nạ như gió xứ bắc, rất nhanh, rất tàn bạo, lại còn tham lam. Một thương nhân giàu có nọ đeo 20 chiếc nhẫn đắt tiền trên những ngón tay, và nó trở thành nguyên nhân cái chết của ông ta. Sau khi bọn cướp rút lui, người ta tìm thấy xác ông ấy trong nhà nhưng hai bàn tay đã bị đem đi mất.
Tướng Alafadi của Sindhura dẫn 2 ngàn kỵ binh, 15 ngàn bộ binh đến đối đầu đội quân mặt nạ. Đó đáng lẽ phải là một cuộc chiến quyết liệt, nhưng quân Sindhura nhanh chóng bị đánh tan tành. Trong lúc Alafadi còn đang tính toán chiến lược thì đội quân mặt nạ với tốc độ khó tin đã đột kích, dùng vó ngựa hất văng đoàn bộ binh. Kỵ binh nhanh chóng nghênh chiến nhưng cứ 1 người lại bị 3 tên địch bao vây. Vô số mũi giáo đâm xuống, giết cả người lẫn ngựa. Trước khi con số thương vong lên đến hàng nghìn, đội hình quân Sindhura đã tan rã. Alafadi cũng đào thoát khỏi chiến trường.
Cũng may nhờ sự háo hức muốn cướp bóc của đội quân mặt nạ mà Alafadi mới thoát được lưỡi hái tử thần. Sau thất bại thảm hại, Alafadi không dám trốn về kinh đô Urayur mà bí mật quay lại nơi địch đóng quân, điều tra tình hình. Đội quân mặt nạ tiếp tục cướp bóc trong thành Gangbay. Lòng tham của họ gây ra nhiều trận tranh chấp trong nội bộ.
"Thần đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp."
Sau đó, Alafadi quay về báo với vua Rajendra. Một người đeo mặt nạ bạc, khoác tấm áo choàng thêu xa xỉ đứng trước một tên cướp cũng đeo mặt nạ khác, hai tay ôm đầy của cải mới cướp bóc được. Hắn ta không nói lời nào, cũng không để đối phương lên tiếng, đã vung kiếm quét một đường. Cái đầu đeo mặt nạ bay lên, xoay vài vòng trước khi rơi xuống đất. Kiếm thuật của kẻ đó khiến Alafadi vô cùng kinh ngạc.
"Ngay sau đó, đội quân mặt nạ lập tức trở nên trật tự và kỷ luật." Toàn bộ của cải cướp được đều tập trung về một chỗ. Một nửa chất lên xe bò, nửa kia được phân phát cho quân lính, không một ai phản đối. Chỉ nhìn bằng mắt cũng thấy được sức mạnh phi thường của vị chỉ huy này.
"Ta hiểu rồi. Hắn quả đáng sợ."
Rajendra lẩm bẩm sau khi nghe chuyện. Hắn hoàn toàn hình dung ra vị chỉ huy của đội quân mặt nạ kia hẳn là một người vô cùng nghiêm khắc, đồng nghĩa với việc đội quân ấy không phải là một toán cướp thông thường.
"Vậy chúng thật sự là người Turan sao?"
"Cũng có thể là người Turk, khó mà nói được."
Alafadi không nghe thấy giọng của Hilmes nên không dám đưa ra kết luận, trong khi Rajendra nghiêng đầu bối rối.
"Ta thật sự không hiểu vì sao người Turan lại điều quân từ lãnh thổ Turk. Chẳng lẽ toàn bộ lãnh thổ Turk đều đã bị Turan chiếm đóng?" Hay là ngược lại nhỉ? Rajendra tự hỏi. Có thể nào Turk thuê người Turan đến quấy rối Sindhura.
"Thật tráo trở! Trước kia ba nước từng liên minh đánh Pars, vậy mà giờ chúng lật mặt, đem quân xâm lược chúng ta. Đúng là vô lý, ít nhất chúng cũng nên tấn công Pars chứ quay sang ta làm gì?" Tuy lời nói có vẻ ích kỷ nhưng dường như Rajendra đã nhìn ra phần nào chân tướng. Chỉ là hắn không biết người chỉ huy đội quân mặt nạ chính là thành viên hoàng tộc cũ của Pars. Trên thực tế, điều này cũng nằm ngoài sức tưởng tượng của bất cứ người nào. Trí tuệ con người đâu toàn năng như thần thánh.
Tóm lại, Rajendra lệnh cho toàn bộ quân đội ở kinh đô Uraiyur sẵn sàng chờ lệnh, nhưng tin bại trận liên tiếp báo về.
Ranjendra bất đắc dĩ thừa nhận sức mạnh của đội quân mặt nạ này. Nghĩ đến đây, hắn chợt nảy ra ý tưởng lấy độc trị độc. Chẳng phải Rajendra có một người bạn thân, dưới trướng cậu ta có vô số võ tướng dũng mãnh hay sao?
Vậy là ba cô hầu gái xinh đẹp giúp nhà vua mặc áo giáp. Rajendra viết cho Arslan một lá thư cầu viện.
Ngoài ra, Rajendra cũng gửi thư đến Turk tra hỏi : "Một nhóm người có vũ trang đang tàn phá biên giới nước ta. Nước ngài hẳn không liên quan gì đến vụ việc này chứ?" Việc cử sứ giả đến Turk là điều cần thiết bởi vua Turk chắc chắn sẽ trả lời rằng "Chuyện này chẳng liên quan gì đến chúng tôi hết." Nhận được câu trả lời như vậy thì mọi chuyện sẽ được giải quyết ngay thôi. Một khi đội quân mặt nạ không phải Turk gửi đến thì xử lý họ trên đất Sindhura thế nào là việc của người Sindhura. Đây là một chiến lược ngoại giao khôn ngoan.
Thế nhưng sứ thần do Rajendra cử đến không thể gặp được vua Turk là Kalhana. Ông ta mất tích ngay sau khi đặt chân lên biên giới. Vị sứ thần bất hạnh ấy bị giết và bí mật chôn xác một cách dã man dưới sự chỉ thị ngầm của vua Turk. Kalhana không thích một cuộc trò chuyện vô nghĩa.
Đã một tháng rưỡi kể từ khi thư của Rajendra gửi đến Arslan. Lễ mừng năm mới đã kết thúc và Pars đang chuẩn bị cho đợt trồng cấy mùa xuân. Vì vậy. Arslan thương lượng với Narsus về việc đưa quân tiếp viện cho Sindhura.
"Hả? Lần này bệ hạ lại thân chinh ra trận nữa sao?"
"Tính cách của bệ hạ là thế mà."
"Ta nghĩ vua Sindhura chí ít cũng nên nhượng lại 2 hoặc 3 tòa thành làm quà cảm ơn."
"Nếu lần nào cầu viện cũng nhận lời thì phiền lắm. Cách tốt nhất để đối phó với kẻ như vua Sindhura là mặc kệ hắn đi."
Đó là cuộc trò chuyện giữa hai vị tướng Jaravant và Isfan. Nhưng Narsus hiểu rằng một khi Arslan làm ngơ, Rajendra sẽ đổi phe ngay lập tức, thậm chí còn đề nghị với kẻ địch "So với xâm lược chúng ta, Pars là miếng mồi béo bở hơn. Ta cũng sẽ giúp sức." Điều quan trọng lúc này là giáng cho Turk một đòn thật đau và tìm hiểu ý đồ của vua Kalhana.
Mặt khác, Narsus cho rằng trong khi nhà vua vắng mặt, những kẻ đang ẩn mình có thể sẽ gây hỗn loạn ở kinh đô hoàng gia Ecbatana, cho nên dặn tể tướng Lucian đảm nhận công việc điều hành triều chính, eran Kishward cần hành động ngay khi có điểm bất thường. Vì là tướng thủ thành nên Jaravant cũng cần đề cao cảnh giác. Narsus không quên căn dặn cách thức xử lý những vụ kiện tụng lớn.
"Thay vì chờ lửa bốc khói, để nó cháy vượng còn dễ dập tắt hơn. Đốt chút lửa cũng không tệ đâu." Narsus nói nhưng bạn anh lại không đưa ra lời giải thích dễ nghe cho lắm.
"Ý ngươi là nếu không có chuyện gì thì chi bằng tự mình gây chuyện đúng không? Mau xin lỗi các vị thần trên cao đi!"
"Ta e là các vị ấy không hơi đâu mà phàn nàn."
Narsus phớt lờ lời chế nhạo của chàng hiệp sĩ đen, bắt đầu vạch chiến lược.
Quân tiếp viện cho Sindhura chỉ có 2 vạn nhưng đều là lính tinh nhuệ, được chọn lựa kỹ càng. Tướng lĩnh đi cùng gồm Narsus, Dariun, Farangis, Elam, Alfarid, Jaswant và Isfan. Tất cả đều là thuộc hạ đáng tin cậy của nhà vua. Merlane ở lại làm đơn vị cơ động. Anh chẳng những là thủ lĩnh ưu tú của tộc Zot mà còn là vị tướng quan trọng, được phép tự quyết định hành động.
Gieve, Elam, Jaswant và Merlane đều thạo địa hình Turk. Trong lúc làm sứ giả ngoại giao, họ đương nhiên cũng thực hiện nhiệm vụ thăm dò các khu vực của nước bạn. Cho nên ngoại giao thực ra cũng là một hình thức thu thập tình báo.
Với Jaswant, đây là trận chiến bảo vệ quê hương khỏi những kẻ cướp bóc man rợ nên anh tràn đầy động lực, chuẩn bị cho cuộc viễn chinh. Alfarid và Elam vẫn cãi nhau khi tập hợp binh lính, chọn ngựa, đếm tên, phân loại vũ khí. Chú diều hâu Azrael đậu trên vai Arslan, nhàn nhã dùng mỏ rỉa lông.
Nhưng có một người đàn ông cảm thấy mệt mỏi bơ phờ, đó là chàng hát rong Gieve. Anh ta không thích Turk, chỉ muốn ở lại Ecbatata, tận hưởng thời gian nhàn rỗi trước khi mùa xuân đến.
"Ta sẽ không đến cái xứ đó nữa đâu. Đừng nhờ cậy ta nữa." Điều Gieve ghét nhất là không thấy bóng dáng người đẹp nào ở Turk cả.
Nghe Elam truyền đạt như thế, Arslan bật cười, vừa nghịch tóc vừa trêu đùa, "Sao lại không có người đẹp ở Turk được cơ chứ? Chắc chắn là họ nghe tin Gieve đang đến nên mới đóng kín cửa sổ và lối ra vào, nín thở trốn bên trong."
"Tôi cũng nghĩ vậy. Tóm lại, Gieve không định tham gia chuyến đi lần này đâu. Chắc anh ta sẽ vùi mình trong kỹ viện nào đó ở Ecbatana cho đến mùa xuân."
"Thật đáng tiếc. Nếu anh ấy không đi cùng, chắc tiểu thư Farangis sẽ cô đơn lắm."
Giọng điệu thản nhiên của Arslan quả là có tác dụng lớn. Nghe Elam truyền lại lời của nhà vua, Gieve liền đứng bật dậy, chuẩn bị lên đường viễn chinh. Anh ta lẩm bẩm : "Sao bệ hạ càng lúc càng xấu tính thế nhỉ? Lây từ ai à?"
---------------------------------
Quân Pars vượt qua thảo nguyên Turan không gặp trở ngại nào, giống như Narsus dự đoán. Thảo nguyên Turan đầy sông hồ, thường gây khó khăn cho các kỵ binh, nhưng vào mùa này, mặt nước đã đóng băng dưới cái lạnh khắc nghiệt nên họ có thể dễ dàng di chuyển bên trên.
Chỉ trong 10 ngày, Pars đã hành quân qua lãnh thổ rộng lớn của Turan, nhìn thấy vùng núi bạc trùng điệp ở phía nam, tức là đã sang đến lãnh thổ Turk.
"Thậm chí còn không bắt gặp một bóng người."
Dariun nói Arslan để ý đến người Turan không phải vì chàng lo bị tấn công mà khi nhìn thấy thảo nguyên mùa đông lạnh giá, chàng đồng cảm với cảnh khốn khó của họ.
"Người già, người bệnh và trẻ con sẽ chết đói ở đây mất. Có thể chia một ít thức ăn dự phòng cho họ không?"
Dariun, người luôn nhất nhất nghe lệnh Arslan, lần này lại không tuân theo ngay lập tức.
"Bệ hạ, thần cả gan thưa với người rằng, đây chỉ là sự cảm thương nhất thời, không có gì đảm bảo đối phương sẽ không trả thù." Dariun vẫn ôm lòng nghi hoặc, dù giúp đỡ người khốn khó là chuyện tốt. Nhưng ở Turan, đôi khi điều này khiến họ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Những người Turan kiêu hãnh có thể còn thấy nhục nhã khi nhận bố thí từ kẻ khác và tấn công cũng nên. Họ không nên cứu trợ khi tình hình chưa quá nghiêm trọng.
"Thông cảm cho kẻ yếu là phẩm chất cao quý nên thấn sẽ không ngăn cản." Narsus nói, "Nhưng sẽ có những kẻ xảo quyệt cố tìm cách lợi dụng lòng tốt của bệ hạ. Nếu bệ hạ đưa thức ăn cho người Turan, hãy để họ nghĩ rằng chúng ta dùng số lương thực ấy làm phí thông hành, cho phép chúng ta đi qua lãnh thổ Turan. Thần tin họ sẽ bằng lòng nhận lấy."
Nghe vậy, Dariun nghiêng đầu, "Nếu họ vẫn cự tuyệt thì sao?"
"Vậy thì tùy họ, không phải người tốt lúc nào cũng nhận được sự đối đãi tương xứng, đối phương cũng có quyền từ chối thiện ý của ta. Hiện giờ hai ta đều đang nghĩ cách để đạt được ý muốn của bệ hạ." Narsus bảo mọi người chuẩn bị một lượng thuốc để có thể hòa tan băng lấy nước uống. Ngoài ra còn có thuốc đau bụng, thuốc mỡ chống cóng, thuốc nhỏ mắt chống gió mạnh và bụi cát, cùng một loại thần dược để sưởi ấm, chính là rượu.
Sau đó, anh đặt lương thực và chỗ thuốc này vào một chiếc lều dựng ven đường, kèm một lá thư tiếng Pars : "Những món quà này để cảm ơn đất nước các bạn đã cho chúng tôi đi qua lãnh thổ." Người Turan không thích nhận sự bố thí của người khác. Phương châm của họ là cướp bóc bằng lòng dũng cảm. Tuy nhiên, họ vẫn phải đối mặt với sự thiếu thốn lương thực vào mùa đông, và những người đàn ông gánh vác gia đình thì giờ đang chinh chiến ở Turk. Ở nhà chỉ còn người già, người bệnh, phụ nữ, trẻ em, không kham nổi những việc nặng nề. Quân Pars có vũ khí, nên họ không còn cách nào trơ mắt nhìn lực lượng hùng hậu ấy đ ingang. Tuy nhiên, thức ăn bỏ lại trong lều sẽ giúp họ sống sót qua mùa đông này.
Dù vị tướng người Turan, Jimsa không đưa ra lời bình luận nào nhưng ắt hẳn trong lòng anh ta có nhiều cảm xúc lẫn lộn.
Quân Pars tiếp tục tiến về phương nam trong ánh hoàng hôn đỏ rực. Áo giáp, kiếm và giáo của họ tỏa sáng lạnh lẽo như một nhóm sao xa vội vã đáp xuống trước khi màn đêm buông.
Khoảng 3000 quân đóng ở biên giới phía bắc của Turk. Họ chưa bao giờ mơ rằng có kẻ thù nào tấn công họ từ hướng này, bởi nước láng giềng phương bắc Turan gần như đã sụp đổ. Việc phòng thủ chỉ mang tính chống đối, hoàn toàn không có sự chuẩn bị nào.
Khi trời sáng, quân Pars đã qua được biên giới. Dù những người lính Turk duy trì tinh thần cảnh giác nhất định vào ban đêm, nhưng khi tia nắng đầu ngày rọi xuống, họ thả lỏng và nghĩ, "Thật tuyệt ! Vậy là không có chuyện gì xảy ra." Lính gác rời trạm gác, lui về quân doanh. Ăn sáng xong quay lại thì chỉ trong nháy mắt, hàng trăm binh sĩ do Jimsa chỉ huy đã trèo qua, chiếm lấy bức tường cao nhất, nơi đặt cổng thành và mở cổng từ bên trong. Họ thắng một cách đơn giản mà không cần chiến đấu.
Vua Kalhana, người đang ở thủ đô Herat đã vô cùng sửng sốt khi hay tin quân Pars kéo sang.
"Kéo quân từ phương bắc, không ngờ thằng nhãi xứ Pars kia tài giỏi như vậy." Phải rất lâu sau ông ta mới thốt nên lời.
Vua Kalhana không sao hiểu nổi vì sao quân Pars thông thạo địa lý nước mình như thế. Sau khi băng qua biên giới Turan và Turk, họ chẳng những không lạc mà còn đánh thẳng vào nơi hiểm yếu nhất.
Điều này đương nhiên là do vị tướng trẻ Jimsa của Turan đảm nhận nhiệm vụ tiên phong. Vua Kalhana không nghĩ tới điều đó. Bản thân ông ta cũng thuê lính Turan để tấn công Sindhura, nhưng không nghĩ kẻ khác có thể làm tương tự.
Vua Kalhana vừa đi từ phòng làm việc trên gác mái xuống phòng nghị sự đã nghe thấy tiếng bàn tán nháo nhào của các tướng lĩnh và các viên thư ký. Ông ta nghĩ bụng.
"Cái tên nhãi vua Pars đó đúng là một kẻ liều lĩnh. Hắn thực sự có thể vượt qua hai nước Turan và Turk. Không thể đánh giá thấp hắn được." Hành trình lần này của Arslan ước tính kéo dài 400 farsang theo đơn vị đo của Pars, tới một đất nước xa lạ vào mùa đông, gặp nhiều điều kiện bất lợi, nhưng đội quân Pars vẫn di chuyển với tốc độ đáng báo động. Ngày mai, họ có thể tấn công vào thủ đô Herat nằm trong thung lũng. Các quan đại thần của nhà vua không giấu được sự bất an.
"Bệ hạ, chúng ta nên làm gì đây?"
"Xin người ra chỉ thị."
Các đại thần và tướng lĩnh đều nhất nhất xin chỉ thị từ nhà vua. Vua Kalhana trải bản đồ Turk lên mặt bàn gỗ mun, dùng ngón tay chỉ ra sáu lối vào thung lũng Herat, cũng là những cửa ngõ kết nối họ với thế giới bên ngoài.
"Không một tên lính Pars nào được phép xông qua cổng vào hẻm núi. Triển khai 5000 lính canh ở mỗi cổng, theo dõi chặt chẽ hành động của chúng. Bất cứ sự vụ nhỏ nào cũng phải báo cáo ngay lập tức." Sau khi nhận lệnh, các tướng lĩnh vội vã rời đi. Vua Kalhana một tay vuốt chòm râu đen nhánh, không ngừng nhìn chằm chằm tấm bản đồ với vô số suy nghĩ trong đầu.
"Narsus? Hóa ra là hắn..."
Vua Kalhana càu nhàu. Khi ông ta còn là phó vương, Turk từng liên minh với Sindhura và Turan để tiến hành một cuộc xâm lược Pars trên quy mô lớn với lực lượng lên tới 50 vạn quân. Dường như ngay cả Pars cũng không đủ mạnh để chống trả. Đúng lúc này, một kẻ vô danh tiểu tốt gọi là Narsus đã gia nhập quân Pars. Chỉ vài ngày sau, liên quân 3 nước tan rã, không còn cách nào ngoài quay về cố quốc trong sự căm giận.
Thất bại này gây hoang mang trong triều đình, giúp Kalhana củng cố quyền lực của mình, cuối cùng giành được ngai vàng. Điều này khiến Kalhana cực kỳ để tâm đến Narsus và luôn đề phòng anh ta. Hiện giờ, quân Pars đang tiến về phía nam ở mạn đông của Herat. Nếu lực lượng phòng thủ phía tây suy yếu, kẻ địch có thể lợi dụng nên phải tăng cường canh gác mọi hướng.
Chẳng bao lâu sau, cả thung lũng Herat đã hình thành một pháo đài khổng lồ, được bao quanh bởi những vách đá dựng đứng. Đúng như tên gọi, pháo này này không thể phá hủy, nhưng liệu có thể chống trọi trước sự tấn công dữ dội của quân Pars nổi tiếng hùng mạnh bao nhiêu năm nay không? Quân Pars không những có thể chiếm mà còn có thể đánh bại quân đội Turk. Thật ra đây không phải vấn đề nan giải. Họ có thể rút vào thật sâu bên trong thung lũng để ẩn nấp, chờ đến khi kẻ địch từ bỏ. Tuy nhiên, vua Kalhana không sao nuốt trôi cục tức này.
Triều đại của vua Kalhana khá ổn định nhưng chỉ là khi ông ta còn sống thôi. Hiện ông còn chưa có người kế vị, cũng không có ai san sẻ quyền lực với nhà vua. Kalhana là kẻ độc tài và hay hiềm tị, ông ta thậm chí không phong ai làm tể tướng mà tự mình nhận nhiệm vụ đó. Mọi công việc nội bộ, ngoại giao, an ninh, quân sự hay thậm chí là việc vặt trong cung điện cũng kiểm soát tuyệt đối. Ông ta là người trực tiếp ra lệnh cho các quan chức chuyên trách.
Lý do nhà vua không định ra người kế vị vì ông ta còn do dự giữa vài ứng viên. Sindhura cũng rơi vào tình cảnh này 5 năm về trước, nhưng Kalhana thì khác vì ông ta thậm chí còn không có ai để chọn lựa. Ông ta có nhiều thê thiếp, không đặc biệt sủng ái ai, và có tới 10 người con nhưng vì lý do nào đó mà chỉ toàn con gái. Con gái lớn nhất mới 15 tuổi, còn đang chờ thành niên. Khi cô kết hôn, chồng cô sẽ là ứng cử viên đầu tiên để thừa kế ngai vàng. Quan lại trong triều bàn tán rất nhiều về điều đó nhưng vua Kalhana không bày tỏ quan điểm gì.
Khi vua Kalhana đổi ý và ra lệnh phát động tấn công, các quan chức và tướng lĩnh đều nghe theo, trừ vài kẻ chống đối từ trước.
"Mục đích của quân Pars không phải là chiếm Herat mà là tấn công đội quân mặt nạ, giải quyết tình trạng hỗn loạn của Sindhura. Chỉ cần họ chặn đường và cố thủ ở thung lũng, Pars sẽ chủ động rời đi." Người đưa ra ý kiến này là em họ Kalhana tên là Kadefisis.
Vua Kalhana nhìn chằm chằm vào mắt ông ta, "Nếu cứ ngồi yên, hoàng tử Hilmes sẽ bị tập kích phía sau lưng, và đội quân mặt nạ sẽ bị diệt."
"Hắn chỉ là một tên hoàng tử lưu vong mà thôi." Kadefidis khinh bỉ nói. "Nếu có người phát hiện Turk đứng sau chống lưng cho hắn thì sự tình sẽ rất phức tạp. Chẳng phải cứ dùng quân Pars để giải quyết mối họa này luôn có tốt hơn không?"
Vua Kalhana chỉ lạnh lùng phản bác, "Nếu bỏ rơi hoàng tử Hilmes thì Turk sẽ không nhận được sự giúp đỡ từ nước nào trong tương lai nữa, vì họ cho rằng Turk sẵn sàng bỏ rơi họ khi lâm vào cảnh khốn khó. Nhiệm vụ của nhà vua là giữ lấy thể diện quốc gia." Thực ra vua Kalhana có ý đồ xấu xa khác. Lý do ông ta không vứt bỏ Hilmes không liên quan gì đến tín nghĩa mà chỉ là bàn đạp để hướng tới mục tiêu thống trị toàn lục địa. Vậy nên việc bo bo giữ mình trước những bất lợi nhất thời sẽ không khiến tham vọng của ông thành hiện thực.
5 vạn quân Turk được bố trí tại biên giới Turk và Sindhura. Nếu quân Pars đánh từ phía đông, họ sẽ tiến về phía nam để chặn đường rút lui. Tuy nhiên, quân sư Narsus đã đoán được động thái này. 5 vạn quân ấy có trình độ khác hẳn 3000 quân đóng ở biên giới phía bắc. Họ là lực lượng vũ trang tinh nhuệ. Vua Kalhana lệnh cho đội quân này khởi hành từ thủ đô Herat, đón đầu quân Pars đang nam tiến và tiêu diệt bọn họ.
Kết quả là hai bên đã đụng đô nhau một trận khốc liệt ở biên giới phía nam của Turk. Trận chiến mang tên "Trận thung lũng Zaraflic."
-----------------------------------
5 vạn quân Turk tạo thành đội hình dày đặc, lấp kín con đường. Chiều rộng mặt đường là 20 gaz theo đơn vị đo lường của Pars. Người Turk cầm giáo dài và khiên, tạo nên những tiếng ồn lớn. Vì không thể phân tán ra hai bên trái phải nên đội hình quân dày san sát. Dù quân Pars có dũng cảm xông vào, bức tường sắt từ khiên và giáo sẽ chặn từng lớp, không cách nào phá được vòng vây. Hai quân đối mặt nhau, cách nhau 150 gaz. Một tướng tên Delani chỉ huy quân Turk cưỡi ngựa lên trước.
"Lũ chó Pars các ngươi chỉ biết vẫy đuôi trước tên hôn quân. Sao lần này dám cả gan xâm phạm biên giới chúng ta?" Ông ta lăng mạ quân Pars trên lưng ngựa nhưng không kịp hối hận về sự bất cẩn của mình. Farangis kéo căng dây dung, mũi tên lao đi không một lời cảnh báo. Tia sáng bạc phóng như bay về phía quân Turk, và tướng Delani ngã lăn khỏi lưng ngựa.
Quân Turk rơi vào trạng thái im lặng chết người. Bọn họ có chút hoảng sợ.
Tiếng hô quân lệnh dần truyền đi. Bởi đội hình quá dài, chẳng khác gì con rắn trườn trong khe núi chật hẹp nên việc truyền lệnh không hề dễ dàng. Hàng trên muốn lui nhưng hàng sau muốn tiến, kết quả là va chạm, xô đẩy lẫn nhau.
"Bình tĩnh ! Không được hoảng sợ."
Những vị tướng cố hết sức an ủi quân lính của mình. Lúc này, một mùi hôi kỳ lạ bốc lên. Hàng trăm vật thể có hình thù như một quả cầu đen với cái đuôi rực lửa bay tới. Ngay khi chạm đội hình địch, nó lập tức phát nổ, kéo theo một lượng khói đen khổng lồ bốc mùi nồng nặc. Những quả cầu đó được nhào từ bột lưu huỳnh, than bùn cùng vài loại cỏ dại chứa chất độc.
Quân Turk không thể kháng cự, tiếp tục rút lui. Khói lưu huỳnh không chút thương tiếc, bay vào mắt, mũi và cổ họng. Quân lính ho đến rơi nước mắt, hắt hơi, hoàn toàn mất khả năng chiến đấu.
Sau trận chiến hôm ấy, phe Turk thiệt hại 5000 người trong khi Pars chỉ có 20 người bị thương, không người tử vong. Trận chiến một chiều vô tiền khoáng hậu trong lịch sử lục địa.
Gặp khó khăn lớn, quân Turk toàn bộ rút về căn cứ trên đường núi. Ba lớp cọc gỗ được đóng bên ngoài, nhằm cản bước tiến kỵ binh Pars. Bọn họ ẩn nấp trong đó, triệu tập tướng lĩnh, tổ chức hội nghị bàn chiến lược.
"Nhất định không thể tha cho chúng. Ta sẽ cho bọn Pars khốn kiếp đó thấy chúng ta mạnh như thế nào." Câu nói của tướng Singh bị ngắt quãng liên tục vì ho và hắt hơi, không có âm thanh nào trọn vẹn.
"Những tên xảo trá đó lúc nào cũng chỉ biết dựa vào thủ đoạn hèn hạ. Ngài nói đúng, không thể bỏ qua cho chúng." Tướng Dugula đáp, nước mắt vẫn còn chảy ròng ròng do nhiễm khói, giờ đang dùng khăn tay vải lanh xứ Mirs nhúng nước để chườm lạnh. Niêm mạc mũi của tướng Brayag thì bị khói làm cho hư hại, máu mũi nước mũi cứ thế trào ra. Do không thể thở bằng mũi, hắn phải há mồm nằm trên tấm da dê nghỉ ngơi. Thái độ của bọn họ đều cực kỳ nghiêm túc nhưng ắt hẳn người Pars đang âm thầm chế nhạo.
Chính người Turk cũng nhận thấy hoàn cảnh khó coi của bản thân nên mới càng tức giận.
"Tóm lại, chúng ta sẽ không thua bọn Pars!"
"Đúng thế, đúng thế."
"Đây đâu phải là thất bại? Chúng ta còn chưa bắt đầu chiến đấu cơ mà?"
"Nếu đối đầu sòng phẳng, sao chúng ta thua lũ khốn đó được."
"Phải. Ta sẽ chôn xác chúng trong thung lũng này." Ai nấy đều bùng lên lòng kiêu hãnh mạnh mẽ giữa những tiếng ho, hắt hơi vài xì mũi. Nhưng thực tế khắc nghiệt hơn họ tưởng. Tinh thần chiến đấu hừng hực không giúp họ nghĩ ra cách đối phó với "Bọn Pars hèn hạ." Mất lợi thế về địa lý, quân Turk nên triển khai thế nào tiếp theo đây?
"Kalhana bệ hạ không cho phép ta thất bại. Ta tin các vị đều đã thấy số phận của tướng Gurab rồi." Singh nghiêm túc nói. Năm ngoái, khi bọn họ bị liên quân Pars và Sidhura đánh bại ở Cổng sắt, bại tướng Gurab bị kết án tử hình tại cung điện, chết dưới tay một nhóm thiếu niên, đều là con của những người lính tử trận dưới trướng ông ta. Nghe nói thi thể tướng Gurab có tổng cộng 80 nhát đâm. Các tướng lĩnh Turk không ai là kẻ hèn nhát nhưng cứ nghĩ đến mình sẽ chết như vậy, họ lại ớn lạnh sống lưng. Thà chết trên chiến trận, ít ra còn lấy được vài đầu địch, chứ không thể chết thế này.
"Đột kích vào ban đêm thì sao?"
Dugula đề nghị, dụi đôi mắt đỏ ngầu. Quân Pars chắc hẳn sẽ thả lỏng một chút sau trận chiến quá đỗi dễ dàng ban nãy. Quân Turk nằm ở hướng gió, tuy nhìn có vẻ bất lợi nhưng thực ra cũng có điểm mạnh là phía bên kia sẽ không nghe thấy tiếng ồn. Tối nay, những binh lính tinh nhuệ sẽ đột nhập vào doanh trại Pars, tấn công bất ngờ. Đó là biện pháp tốt nhất.
"Ý tưởng này rất hay nhưng chắc chắn Pars cũng có sự chuẩn bị, sợ rằng mọi chuyện sẽ không suôn sẻ như thế."
"Nhưng đâu có cách nào tốt hơn ra tay trước?"
"Được rồi, ngài nói phải. Vậy chúng ta sẽ đột nhập vào, giết vua Pars và kết thúc toàn bộ trận chiến." Singh đứng dậy, chuẩn bị ra lệnh điều quân thì bất chợt, nửa mặt bên trái hắn ta đỏ bừng. Ngay sau đó, hắn hét lên bằng tiếng Turk.
"Quân Pars tấn công bằng hỏa lực!"
Các vị tướng khác liền cầm kiếm đứng dậy, ra khỏi trại.
Quân Turk buộc phải bỏ chạy tứ tán bởi lửa. Ba hàng công sự gỗ cũng cháy dữ dội. Hàng trăm hàng ngàn mũi tên với đầu bọc lửa bắn ra từ phái bên kia. Ánh sao trên trời cũng bị lửa trên mặt đất lấn át. Làn khói dày đặc chồng lên nhau, không phân biệt được sáng với tối.
Ba hàng rào công sự sụp đổ, và đó là tất cả những gì ngăn quân Pars tiến bước. Những cơn gió dữ gầm lên, lửa cháy điên cuồng. Lẫn trong tiếng hú của gió đêm là tiếng vó ngựa rầm rập.
"Không được hoảng sợ! Chĩa mũi giáo về phía quân Pars! Không có gì phải sợ lũ kỵ binh Pars hết!" Tướng Singh đưa ra chỉ thị chuẩn xác nhưng tiếc là không nghe thấy. Người lính truyền tin đã bị hiệp sĩ áo đen của Pars bắn tên giết chết trong lúc hỗn loạn.
"Hết cách rồi. Tạm thời chúng ta cứ rút sang lãnh thổ Sindhura, tổ chức lại lực lượng ở đó rồi hãy trả thù Pars." Nghe quyết định của tướng Singh, binh lính Turk đáp lại bằng những tiếng ho và hắt hơi. Họ rút chạy, thoát khỏi khe núi đầy rẫy chết chóc và tủi nhục. Một nửa trong số họ thậm chí còn bỏ vũ khí lại để chạy lấy mạng. Miễn có thể trốn thoát, họ không ngần ngại giẫm đạp lên đồng đội đã ngã xuống của mình. Nơi này không có chỗ cho đạo đức lên tiếng. Sau lưng bọn họ lúc này đã là khói lửa mịt mù cùng mũi tên ngọn giáo của quân Pars.
Khi bình minh ló rạng, cuộc truy đuổi kết thúc. 50 lính Pars thiệt mạng giữa trận hỗn chiến nhưng số thương vong của quân Turk cao hơn đến 200 lần. Cuối cùng chỉ có 3 vạn 5 ngàn quân trốn được vào lãnh thổ Sindhura. Họ bỏ lại vũ khí lương thực, sức chiến đấu giảm đi đáng kể.
Arslan ngồi trên lưng ngựa, nhìn chiến trường tan hoang đầy khói. Chàng động viên, khen ngợi các binh lính đã chiến đấu dũng cảm.
"Mọi chuyện diễn ra đúng như kế hoạch của Narsus." Kể từ khi quen biết, nhiều năm nay Arslan vẫn luôn rất ngưỡng mộ chiến lược gia của mình. Anh ta thao túng hoàn toàn vua Kalhana dù đối phương ẩn mình ở tận cung điện Herat. Vua Kalhana quả nhiên không thể nào ngồi yên để mặc quân Pars đi qua lãnh thổ Turk, cho nên đã phái quân đóng ở biên giới Sindhura hòng chặn đường. Tất cả không qua được mắt vị họa sĩ cung đình.
Chiến dịch "Nửa vầng trăng của Arslan" đã được Narsus tính toán và thực hiện không sai một ly, nhằm đảm bảo chiến thắng cho Pars. Ngay khi vua Kalhana hành động, phe Pars đã cầm chắc phần thắng trong tay rồi.
"Vua Kalhana cũng là kẻ xảo quyệt. Sau khi nhận ra tìn thế bất lợi của phe mình, chắc ông ta sẽ phản ứng ngay thôi."
"Ông ta sẽ làm gì, Narsus?"
"Ví dụ như...."
Narsus bắt đầu giảng giải. Đầu tiên, nếu muốn giành chiến thắng ở hẻm núi Zaraflic thì cần phải đứng xuôi hướng gió. Như Pars đã làm ban nãy, họ phóng hỏa và bắn tên lửa từ đầu hướng gió. Nhưng để sử dụng chiến lược này thì phải tấn công từ phương bắc. Vua Kalhana hẳn sẽ mở cổng bắc ở lối vào thung lũng Herat, âm mưu chờ Pars tiến về phía nam thì ông ta sẽ đánh lén sau lưng.
"Quá nguy hiểm. Narsus, ngươi định làm cách nào để chống lại?"
"Điện hạ có ý kiến gì không?"
Narsus hỏi lại. Arslan ngồi trên lưng ngựa, ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp, "Không cách nào chống lại gió mạnh trong khe núi. Chúng ta chỉ có thể lập tức đi qua lãnh thổ Turk, sang lãnh thổ Sindhura."
"Bệ hạ sáng suốt." Narsus mỉm cười gật đầu.
Trong khi bàn kế hoạch tiếp theo, Dariun nói, "Sang đến Sindhura rồi, có thể chúng ta sẽ lại đụng độ quân Turk sớm thôi."
"Vậy thì xui cho chúng."
Lúc này, nụ cười của Narsus vừa sắc bén vừa tàn ác. Quân Turk bỏ lại lương thực để bỏ chạy, ẩn náu tại Sindhura, nhưng vùng lãnh thổ này trước đó đã bị đội quân mặt nạ cướp phá sạch sành sanh rồi. Hơn 3 vạn quân không có lương thực, chỉ đành nhịn đói. Vị quân sư đã lường hết tất cả.
-----------------------------
Sau khi nhận tin bại trận, vua Kalhana tức giận ném chén rượu bạc xuống đất trong khu vườn treo của cung điện. Xem ra sắp có thêm vài vị bại tướng phải lĩnh án tử hình.
Quân Pars dễ dàng đánh tan quân Turk, tiến về phía nam với tốc độ phi thường, tựa như đại bàng từ trời cao giang đôi cánh, sà xuống con mồi trên mặt đất. Mà lúc vua Kalhana hay tin, đội tiên phong của Pars đã ở trên đất Sindhura.
Vua Kalhana không có thời gian hối hận trước thất bại của mình, ông ta buộc phải ra quyết định. Có nên tiếp tục ẩn náu trong thung lũng bất khả xâm phạm Herat này và gặm nhấm mối căm hờn, để quân Pars ngang nhiên tiến đến Sindhura hay không? Hay là dùng quân đánh lén sau lưng trong khi bọn họ xuôi về phương nam.
Có 12 vạn 5 ngàn quân đóng tại thung lũng Herat. Không cần đề phòng Turan ở phương bắc nữa nên họ có thể huy động tới 10 vạn.
"Không thể ngồi yên chờ chết."
Vua Kalhana lẩm bẩm, một tay vuốt ve tượng đầu sư tử bằng đồng ở góc phòng. Cận thần và người dân không yêu mến ông ta, họ chỉ tôn kính và sợ hãi ông ta như một kẻ độc tài dù hà khắc nhưng có năng lực. Nếu chấp nhận thất bại ở Zaraflic, sự kính sợ của dân chúng với vua Kalhana sẽ lung lay, ngai vàng cũng bất ổn.
"Bọn họ không chỉ thua Pars mà còn tự ý vượt qua biên giới Turk. Quân đội thì vô dụng mà nhà vua thì bất tài." Những kẻ âm thầm xúc phạm quốc vương sẽ bị xử cắt lưỡi nhưng làm sao ngăn được lời ong tiếng ve.
Vua Kalhana suy nghĩ một hồi. Sau đó, ông ta rung chiếc chuông đồng trên bàn để gọi người hầu cận, ra lệnh triệu tập lãnh chúa Kadefisis, một quý tộc đã từng khuyên vua Kalhana hạn chế các cuộc tấn công Pars. Người này sống trong dinh thự của một vị quan địa phương cách xa Herat, mỗi năm chỉ vào thung lũng Herat một lần để tỏ lòng thành kính với nhà vua, chào hỏi các quý tộc khác, mua đồ quý từ các thương nhân nước ngoài và giải quyết vài việc liên quan đến tranh chấp đất đai, thuế má....Đó cũng là đời sống điển hình của giới quý tộc Turk. Ngay khi được gọi, Kadefisis đến quỳ trước mặt nhà vua. Vua Kalhana lên tiếng trước.
"Ta muốn cảm ơn ngươi về những món quà."
"Thần lấy làm sợ hãi, thưa bệ hạ." Kadefisis là con trai của chú của vua Kalhana. Tuy là anh em họ nhưng tuổi tác họ chênh lệch như cha con. Kadefisis tròn 30, cao lớn oai nghiêm, lông mày và bộ ria mép màu nâu nhạt được cắt tỉa gọn gàng, có thể nói là người đàn ông chải chuốt nhất trong giới quý tộc Turk. Tiếc rằng năm ngoái hắn không có cơ hội gặp Gieve, vị sứ thần Pars. Nếu không, chắc bọn họ đã ghét nhau ra mặt.
Nếu có ai ở Turk không biết sợ vua Kalhana thì đó là Kadefisis. Ai ai cũng cố hết sức tuân theo mệnh lệnh của nhà vua trong khi Kadefisis thì khác hẳn. Hắn ăn nói cư xử lịch thiệp nhưng lại thường xuyên lên tiếng phản đối các quyết sách. Lần này cũng thế, hắn không ủng hộ tấn công Pars.
Vua Kalhana bảo hắn đứng dậy.
"Ngài Kadefisis, cho ta hỏi thẳng, ngài có muốn ngai vàng của Turk không?" Đây là một câu hỏi quá sức bất ngờ mà nếu trả lời tùy tiện, có thể sẽ mất luôn cái đầu. Vì vậy, Kadefisis thận trọng đáp.
"Đương nhiên thần sẽ nhận trách nhiệm nếu có cơ hội, nhưng..."
"Nhưng cái gì?"
"Thần không muốn tốn sức vì nó, chỉ muốn đối phương tìm đến mình. Đó là cách theo đuổi một người phụ nữ." Kadefisis mỉm cười, muốn đổi chủ đề nhưng vua Kalhana lại lạnh lùng chất vấn.
"Ngài có bao nhiêu tình nhân? Năm hay sáu?"
"Người biết rõ mà, cả thảy 5 người. Có vấn đề gì không ạ?"
"Dọn dẹp mớ lộn xộn xung quanh ngài đi. Con gái quốc vương không thể chung chồng với kẻ khác." Kadefisis cau mày. Chẳng phải chồng của con gái cả của nhà vua sẽ trở thành người thừa kế ngai vàng sao, hoặc chí ít cũng là ứng viên sáng giá nhất. Hai người còn là họ hàng xa, tuổi tác cũng vừa xứng.
Sau đó, trong đầu Kadefisis liền hiện lên hình ảnh cô con gái cả của vua Kalhana. Cô giống hệt cha mình, cao, ngăm đen, vóc dáng gầy gò, nói thẳng ra là không đẹp. Tuy không rõ tài năng tính cách cô thế nào, nhưng có ngai vàng là của hồi môn thì dung mạo không thành vấn đề. Tận đáy lòng Kadefisis hết sức vui mừng nhưng cũng cảm thấy có gì mờ ám. Hắn biết với tính cách của anh họ mình, ông ta lạnh lùng đến sắt đá và bị ám ảnh bởi tham vọng quyền lực.
"Ta chỉ muốn kiểm tra phẩm chất của ngài. Nếu đạt được kết quả ưng ý, ta sẽ ban cho ngài phần thưởng cao quý nhất." Ý nói là có điều kiện.
Quả nhiên là vậy, Kadefisis thầm nghĩ. Vua Kalhana vuốt ve chòm râu dài, tự hỏi không biết hắn có phát hiện ra điều gì bất thường không, hay là biết mà vờ như không biết.
"Lũ người Pars đáng ghét đã đi khắp lãnh thổ của ta một cách ngang ngược, giờ đang hành quân đến Sindhura. Lẽ ra ta có thể đuổi chúnh đi nhưng không thể quá nặng tay, ảnh hưởng đến uy tín quốc gia của Turk."
"Là uy tín của riêng bệ hạ mà thôi."
Kadefisis không nói ra những lời này, chỉ im lặng lắng nghe một cách kính cẩn. Vua Kalhanan nói tiếp, "Vậy nên ta lệnh cho ngài lập tức đến Sindhura, tấn công quân Pars. Ta và công chúa sẽ cùng cầu nguyện cho ngài thắng trận khải hoàn.
Kadefisis nuốt nước bọt, "Đây chỉ là khẩu lệnh thông thường thôi sao?"
"Ngài muốn ta thay bằng chiếu chỉ của hoàng gia?"
"Nếu là chiếu chỉ, thần xin lĩnh nhận?"
Dù Kadefisis xưa nay luôn cẩn trọng trong mỗi hành động nhưng lần này anh ta buộc phải nói.
"Quân đội cần được tổ chức lại cho cuộc viễn chinh tiếp tế đến Sindhura sắp tới. Vậy chẳng phải sẽ gây thêm gánh nặng cho quốc khố ư?"
"Ta không yêu cầu ngài đem quân đến Sindhura mà là cầm quân sau khi đến được Sindhura." Nhà vua trả lời một câu mà Kadefisis không sao hiểu nổi. Hắn dò xét một hồi, sau đó vua Kalhana mới giải thích.
"Cuộc viễn chinh của tướng Singh đã thất bại. Ông ta bị quân Pars đẩy lui và buộc phải trốn sang Sindhura. Bên ông ta còn ít nhất 3 đến 4 vạn quân. Ngaig phải chỉ huy ông ta với cách là thống chế, chiến đấu chống quân Pars." Kadefisis không nói nên lời trong khi vua Kalhana tiếp tục, "Ngài không cần mang theo người lính nào cả, ngày mai hãy lên đường đến hội quân với Singh." Tốt hơn hết là Kadefisis đoàn kết được lực lượng tàn quân của Turk, đánh bại quân Pars. Còn nếu không, cùng lắm là hắn và Singh cùng chết dưới tay quân địch. Nếu Kadefíisis chiến thắng trở về như một người hùng, đồng thời đe dọa đến quyền lực của vua Kalhana thì cần tìm cách tiêu diệt hắn. Trong trường hợp không may Kadefisis không đủ khả năng thì Kalhana chỉ mất đi một ứng viên thừa kế ngai vàng chứ chẳng thiệt hại gì nhiều.
"Đừng tưởng mọi chuyện sẽ như ông tính toán. Mơ mộng hão huyền. Ông có kế hoạch của ông, ta cũng có kế hoạch của ta để tránh nguy hiểm trong tương lai." Kadefisis quỳ trên mặt đất, nghĩ thầm trong bụng.
"Thành thật mà nói, mệnh lệnh của người có phần khắc nghiệt. Nhưng với tư cách là quan chức triều đình, thần không có quyền ý kiến. Thần sẽ lập tức chuẩn bị đến Sindhura, dốc lòng báo đáp sự tin tưởng của bệ hạ." Herat không còn là nơi thích hợp để ở lâu dàu nữa. Nếu cứ nhẫn nhịn mãi thì cuối cùng cũng sẽ có ngày bị buộc tội là bất tuân chiếu chỉ của nhà vua rồi bị đem xử tử thôi. Giờ là lúc phải từ bỏ cuộc sống an nhàn của một quý tộc tầm thường rồi.
Vua Kalhana nheo đôi mắt sắc bén nhìn Kadefisis trên mặt đất, cái nhìn tựa như muôn mũi kim đâm xuyên. Cuối cùng, ông ta nhếch khóe miệng.
"Ta hết sức mong chờ chiến tích của ngài, người em họ trung thành của ta."
Vậy là vị lãnh chúa quý tộc người Turk tên Kadefisis đã đặt chân lên hoang mạc bị tàn phá bởi chiến tranh, cướp bóc chỉ 5 ngày sau khi quân Pars tiến vào lãnh thổ Sindhura.
Danh sách chương