Trong khi quân Pars hân hoan trước kết quả trận chiến thì quân Turan vô cùng thất vọng và phẫn nộ. Tinh thần của người Pars rõ ràng đã dâng cao khi quân tiếp viện của họ tiến vào được thành.
Hoàng tử Ilterish tức tối khiển trách các thuộc hạ.
“Các ngươi còn dám nhận mình là chiến binh của Turan khi để một ả đàn bà vượt qua hàng phòng thủ à? Các ngươi nên coi đó là vết nhơ trong tên tuổi của chính mình, với cả thành tựu của đấng tổ tiên!”
Bị mắng mỏ gay gắt nhưng các thuộc tướng của Tarkhan đều im lặng. Đúng là họ đã thất bại một cách đáng xấu hổ, nhưng Ilterish đâu thể nói rằng bản thân không có chút trách nhiệm nào.
“Nghe đây ! Để khôi phục lại thanh danh, chúng ta phải chiếm cho bằng được Peshawar, bắt ả đàn bà đó về đây, khiến ả phải hối hận !”
Tarkhan lên tiếng phản đối.
“Đừng hấp tấp như vậy. Mục đích của chúng ta là tiêu diệt toàn bộ quân Pars và chấm dứt trận giao tranh kéo dài nhiều năm này. Việc bắt một người đàn bà phải hối tiếc hay gì đó, có phải quá tầm thường hay không? Khi ta tiêu diệt được quân Pars, bất cứ ai trên đời này cũng hiểu, chúng ta không thể bị xem thường.”
Phân tích vô cùng hợp lý. Ilterish còn chưa kịp trả lời thì Karluk đã chặn trước.
“Ngài nói phải. Tuy nhiên, tình thế của ta lúc này rất bất lợi. Có lẽ đức vua cũng phiền lòng. Có giải pháp nào tốt hơn không?”
“Luôn có giải pháp. Các vị nghĩ sao vê kế hoạch này?”
Tarkhan đề xuất bỏ qua Peshawar, đi về phía tây trên Đại lục vương lộ. Quân Pars đang từ phía tây quay về viện trợ cho pháo đài của họ. Thay vì mất nhiều thời gian cũng như quân số vây thành Peshawar, ta cứ mặc kệ nó đấy, chờ quân Pars xuất hiện. Một khi tiêu diệt được quân đội chính quy của Pars, pháo đài Peshawar sẽ tự khô héo mà chẳng cần làm gì, bởi nó là cái cây đã mất gốc.
“Nói cách khác, đây là trận chiến trực diện với đại quân Pars. Sao ta có thể thua?
Tarkhan mỉm cười. Ilterish liền hào hứng xen vào, “Ta không biết những kẻ khác thế nào chứ ta chắc chắn không thua. Nhưng đó không phải vấn đề. Quan trọng là vua Tokhtomysh nghĩ sao. Ngài ấy có hài lòng với điều đó không?”
Nói rồi, Ilterish quay ngựa rời đi. Các tướng khác ở lại, lo lắng thì thầm.
“Hoàng tử quá nóng lòng muốn lập công rồi.”
“Không đáng ngạc nhiên. Với tư cách là hoàng tử, nếu ngài ấy không chiếm được Peshawar trước khi đức vua thân chinh ra trận thì thật xấu hổ.”
“Khi ấy, không chỉ hoàng tử mà ngay cả chúng ta cũng khó thoát tội. Đức vua rất nghiêm khắc.’
Trong lúc bọn họ căng thẳng sợ hãi, Tarkhan chen ngang.
“Hoàng tử có lý đấy. Nếu ta không nhường công lao tiêu diệt đại quân Pars lại cho nhà vua thì ngài ấy sẽ không vui đâu.”
“Thế nghĩa là chúng ta chỉ được đánh cầm chừng thôi.”
Karluk chán nản đồng ý.
Sáng sớm hôm sau, cuộc tấn công của quân Turan dường như ác liệt hơn mọi khi. Có vẻ như họ đã quyết tâm dồn toàn lực để hạ cho bằng được thành Peshawar. Đại quân Turan có tổng cộng 6 vạn quân, tất cả đều là kỵ binh. 3 vạn quân đã bao vây thành, bắn tên liên tục, dùng thân gỗ lớn phá cổng thành, đóng cọc leo lên tường thành. Mặt khác, quân Pars ráo riết ứng phó với cuộc vây công của kẻ thù. Kubard động viên binh lính.
“Đừng lo! Có Kubard khoác lác ta ở đây! Không có người đẹp nào thì ta còn lâu mới giao pháo đài cho lũ chăn cừu đó!”
Người đàn ông này hình như tự đánh đồng biệt danh “Kubard khoác lác” của mình với những danh hiệu vinh quang như “Chiến binh của mọi chiến binh” hay “Song đao tướng quân”, khiến quân lính cười vang. Nhờ trò đùa ấy mà mọi người quên đi mệt mỏi, nâng cao tinh thần đối mặt với sức tấn công dữ dội của địch. Cách vị marzban tên Kubard này tiếp xúc với những người lính và động viên họ trước khó khăn khác hẳn với Dariun hay Kishward.
Quân Turan kéo một cỗ máy bắn đá tới. Theo thông lệ, quân Turan sẽ cho các thợ thủ công chế tạo vũ khí ngay tại chiến trường, lấy nguyên liệu từ địa phương mà họ chiếm đóng.
Tuy nhiên, hoạt động của cỗ máy này không quá lý tưởng. Sau khi bắn ra năm mươi tảng đá có kích thước bằng đầu người, cỗ mãy gần như rã rời, không thể sử dụng nữa. Quân Turan mang ra chiếc thứ hai. Farangis bắn hạ người điều khiển từ khoảng cách xa. Trong lúc bọn họ bận rộn sắp xếp người thay thế, Farangis cẩn thận nhắm vào các khớp gỗ để ráp nối, bắn ra mũi tên thứ hai. Khớp nối bằng gỗ bị bắn gãy, cỗ máy cũng đổ sụp.
Kẻ thù lẫn đồng minh đều kinh ngạc trước tài nghệ phi thường của Farangis. Sau đó, quân Turan từ bỏ máy bắn đá, bắt đầu đào hầm dưới chân thành để xông vào pháo đài. 1 vạn quân xếp khiên dưới thành, ngăn cơn mưa tên và đất đá trên cao dội xuống. Có vẻ không có kế sách nào tốt hơn để đối phó với hàng phòng ngự của quân lính thành Peshawar. Đến rạng sáng ngày thứ ba, Farangis nghĩ ra một kế. Phía cô cũng cho quân đào hầm rồi đổ đầy nước bên trong.
“Quân Pars tới!”
Tiếng hét lớn khiến binh lính Turan giật mình. Các tướng lĩnh lập tức rời giường, nhảy lên chiến mã.
Lúc đầu, quân Turan tưởng đại quân Pars kéo đến từ hướng Tây nên đã triển khai phần lớn quân lực ở phía tây đón địch. Nhưng theo kế hoạch của Narsus, quân Pars đi vòng từ phía nam của Đại lục vương lộ, tiến sang lãnh thổ vương quốc Sindhura, tiếp cận phía đông pháo đài Peshawar trong đêm tối.
Đến rạng sáng, quân Pars và quân Turan bắt đầu giao chiến ở phía đông thành Peshawar. Quân Turan bị kẹp giữa đại quân Pars bên ngoài và quân Pars trong pháo đài. Nếu chiến đấu ở vùng thảo nguyên bằng phẳng rộng lớn, họ có thể đánh ngang hàng. Nhưng lúc này họ đã mất địa lợi, chỉ có thể trơ mắt nhìn quân Pars xé nhỏ đội hình của mình. Một tướng Pars bước ra hàng đầu, hô lớn.
“Những kẻ dám lợi dụng tình thế khó khăn của chúng ta để vô cớ xâm lược kia ! Ta đã chán nghe các ngươi tự nhận là “Kẻ chinh phạt thảo nguyên" rồi. Sau này Turan các ngươi nên gọi bản thân là “Kẻ ăn xác thối trên đồng cỏ!”
Người vừa lớn tiếng quát mắng quân địch là “Tahir” Kishward, hai lưỡi gươm sáng lóa trên tay, khiển mã chỉ bằng hai chân kẹp bụng ngựa, băng băng lao về phía trước. Thấy thế, một dũng tướng của Turan cũng cưỡi ngựa lên đón đầu. Kishward thậm chí còn hăng máu hơn khi thấy kẻ thù trước mắt.
“Những tên không biết trời cao đất dày, muốn xâm chiếm nước khác để thỏa mãn lòng tham, chẳng những sẽ gánh lấy kết cục chết nơi đất khách mà còn kéo theo sự hủy diệt của cả vương quốc mình ! Ngươi có muốn nhận lấy kết cục ấy và ghi tên sử sách với danh bại tướng không?”
“Ngươi mới….”
Người đó không thể nói hết câu vì không thạo tiếng Pars. Tiếng Pars là ngôn ngữ chung của các nước trên Đại lục vương lộ nên nếu người Turan muốn giao tiếp với người Pars thì phải dùng tiếng Pars. Boila biết mình không thể cãi thắng đối phương.
“Mặc kệ ! Đánh đi!”
Lời chưa thốt hết, ngọn giáo trong tay hắn đã vung ra một đòn rất ấn tượng cả về tốc độ lẫn uy lực. Kishward khéo léo cản lại bằng thanh kiếm trên tay trái, rồi quét ngang kiếm bên tay phải. Lưỡi kiếm trắng đáng lẽ đã xén đứt cổ họng Boila nhưng vị tướng Turan dũng mãnh đã khéo léo xoay chuôi giáo, đẩy lùi đòn đánh. Hai con ngựa vọt qua, hai đối thủ đổi vị trí cho nhau.
Trong khi Kishward và Boila giao chiến, Dariun xông vào giữa doanh trại Turan. Các thuộc tướng của anh đã khéo léo phân tán lực lượng quân Turan và tiến đến cổng thành Peshawar. Những người cản đường đều bị thanh trường kiếm của Dariun chém gục, máu loang đầy đất. Nhưng kể cả chứng kiến cảnh tượng đó, vẫn có những người không biết sợ là gì.
“Kẻ mặc đồ đen kia ! Ngươi là Dariun phải không?”
Một tia sáng nguy hiểm lóe ra từ cặp mắt của chiến binh Turan. Hắn chính là jinong, theo tiếng Pars nghĩa là hoàng tử, tên Ilterish.
“Hơn 1000 ngày qua, ta chưa bao giờ thôi nung nấu ý chí báo thù cho cha mình ! Giờ đây, ngươi sẽ phải trả giá bằng mạng sống.”
Dariun không có ý định đếm xem mình đã lấy mạng bao nhiêu kẻ thù. Giết người là tội lỗi, nhưng mỗi một người anh giết là kết quả của một cuộc đấu cân bằng mà ai bước vào cũng sẵn sàng đối diện với kết cục khi thất bại, và Dariun không xấu hổ vì những gì mình làm. Dẫu đối phương có ôm lòng căm hận thì đó cũng là lẽ hiển nhiên thôi.
“Ta không biết ngươi là ai, nhưng nếu ngươi giết được ta thì sẽ không công bằng cho những người khác cũng đang muốn trả thù. Cho nên ta sẽ không chết ở đây.”
“Đừng lo ! Ta sẽ thay ngươi tạ lỗi những kẻ đó.”
Dứt lời, Ilterish lập tức tấn công. Ngay khi cuộc đối chiến chuẩn bị bắt đầu, vô số mũi tên bay tới, một trong số đó bắn xuyên cổ thú cưỡi của Ilterish. Con ngựa hí lên, còn người cưỡi chửi rủa khi cả hai cùng ngã xuống cát.
“Hẹn ngày tái chiến.”
Nói rồi, Dairun thúc ngựa ô quay về mục tiêu ban đầu, cổng thành Peshawar. Cánh cổng đã mở, và anh thấy một kỵ sĩ quen thuộc xông ra với thanh trọng kiếm.
“Ô, chẳng phải ngài Kubard đấy sao?”
Dairun mở to mắt.
“Không gặp từ trận Atropatene rồi, thật mừng khi thấy ngài bình an vô sự. Ngài cũng đến để phò trợ Thái tử điện hạ Arslan phải không?”
“Nhìn tình hình này thì trước mắt là thế.”
Vừa trả lời, thanh trọng kiếm của Kubard phát ra âm thanh nặng nề khi nó chém phải áo giáo của một kỵ binh Turan, tách đầu của kẻ đó khỏi thân thể, máu văng tung tóe. Dairun chỉ mỉm cười khi nghe câu nói đó, đồng thời vung kiếm lên.
Một cầu vồng máu xẹt ngang không trung. Hình ảnh Dariun và Kubard kề vai cầm kiếm là sự trấn an lớn nhất với những người lính Pars. Nhưng với quân Turan, hai chiến binh này chính là tai họa mang hình dáng con người. Họ bắt đầu trốn chạy khỏi những lưỡi gươm chết chóc ấy.
Tiếng tù và vang lên. Thấy tình hình thay đổi, Karluk ra lệnh cho quân lính phát tín hiệu rút lui. Quân Turan vẫn giữ được đội hình khá tốt trong trận chiến. Người lui quân đầu tiên là Boila sau khi đã giao chiến với Kishward hơn hai mươi hiệp. Hắn cất ngọn giáo và quay ngựa trước khi phân định thắng thua.
Vì quân Turan đã dốc sức công thành nhiều ngày nên giờ đây, họ đành phải tạm dừng cuộc chiến khi chưa chiếm được thành Peshawar.
Thái tử Arslan cưỡi trên mình ngựa và chú chim ưng Azrael đậu trên vai trái, bước vào pháo đài. Thành Peshawar bùng nổ trong tiếng hò reo. Lucian đón thái tử, rơi nước mắt vì nhẹ nhõm. Lúc này, quân Pars cũng nhận được tin từ vua Rajendra của Sindhura. Khi biết đại quân Pars đã vào được thành, hắn gửi 1 vạn kỵ binh, 2 vạn bộ binh cùng tượng binh đến cùng tham chiến. Tình hình được cải thiện nhanh chóng.
“Hừ, gã này vẫn luôn thích sao làm vậy!”
Kishward cười khổ, những người còn lại cũng đồng tình. Không nghi ngờ gì nữa, vua Rajendra của Sindhura vẫn luôn theo dõi diễn biến trận chiến giữa Turan và Pars, đồng thời tính toán kế sách có lợi cho mình. Dairun tin chắc Rajendra đã cầu nguyện thần linh cho đôi bên cùng tổn thất thảm trọng.
Tuy nhiên, quân Turan đã phải lui về tập trung cách pháo đài Peshawar 1 farsang về phía tây. Ngày 8 tháng 6, họ lại kéo đến trước cổng thành. Khi quân Pars chuẩn bị đối đầu với họ, một trận động đất xảy ra.
Đó là một trận động đất lớn và kéo dài. Khi cơn rung chấn dừng, tinh thần chiến đấu của hai quân Pars lẫn Turan đều bị ảnh hưởng. Họ thu gươm giáo, quay về căn cứ mà không giao tranh. Tướng lĩnh hai bên bàn nhau về trận động đất mạnh hiếm có này. Nhất là người dân Pars, họ vô cùng bàng hoàng và dấy lên trong lòng nỗi sợ hãi khó hiểu. Chỉ mong không có tai họa nào xảy đến.
“Các tinh linh đang la hét. Một cơn gió mang điềm xấu thổi về phía tây bắc.”
Nữ tư tế Farangis cau mày nhìn từ đỉnh pháo đài với vẻ lo lắng. Bên kia dãy núi hiểm trở có một con đường dốc đứng, chứa đầy những truyền thuyết lạ lùng không ai xác minh được. Ngọn núi Demavand.
Hoàng tử Ilterish tức tối khiển trách các thuộc hạ.
“Các ngươi còn dám nhận mình là chiến binh của Turan khi để một ả đàn bà vượt qua hàng phòng thủ à? Các ngươi nên coi đó là vết nhơ trong tên tuổi của chính mình, với cả thành tựu của đấng tổ tiên!”
Bị mắng mỏ gay gắt nhưng các thuộc tướng của Tarkhan đều im lặng. Đúng là họ đã thất bại một cách đáng xấu hổ, nhưng Ilterish đâu thể nói rằng bản thân không có chút trách nhiệm nào.
“Nghe đây ! Để khôi phục lại thanh danh, chúng ta phải chiếm cho bằng được Peshawar, bắt ả đàn bà đó về đây, khiến ả phải hối hận !”
Tarkhan lên tiếng phản đối.
“Đừng hấp tấp như vậy. Mục đích của chúng ta là tiêu diệt toàn bộ quân Pars và chấm dứt trận giao tranh kéo dài nhiều năm này. Việc bắt một người đàn bà phải hối tiếc hay gì đó, có phải quá tầm thường hay không? Khi ta tiêu diệt được quân Pars, bất cứ ai trên đời này cũng hiểu, chúng ta không thể bị xem thường.”
Phân tích vô cùng hợp lý. Ilterish còn chưa kịp trả lời thì Karluk đã chặn trước.
“Ngài nói phải. Tuy nhiên, tình thế của ta lúc này rất bất lợi. Có lẽ đức vua cũng phiền lòng. Có giải pháp nào tốt hơn không?”
“Luôn có giải pháp. Các vị nghĩ sao vê kế hoạch này?”
Tarkhan đề xuất bỏ qua Peshawar, đi về phía tây trên Đại lục vương lộ. Quân Pars đang từ phía tây quay về viện trợ cho pháo đài của họ. Thay vì mất nhiều thời gian cũng như quân số vây thành Peshawar, ta cứ mặc kệ nó đấy, chờ quân Pars xuất hiện. Một khi tiêu diệt được quân đội chính quy của Pars, pháo đài Peshawar sẽ tự khô héo mà chẳng cần làm gì, bởi nó là cái cây đã mất gốc.
“Nói cách khác, đây là trận chiến trực diện với đại quân Pars. Sao ta có thể thua?
Tarkhan mỉm cười. Ilterish liền hào hứng xen vào, “Ta không biết những kẻ khác thế nào chứ ta chắc chắn không thua. Nhưng đó không phải vấn đề. Quan trọng là vua Tokhtomysh nghĩ sao. Ngài ấy có hài lòng với điều đó không?”
Nói rồi, Ilterish quay ngựa rời đi. Các tướng khác ở lại, lo lắng thì thầm.
“Hoàng tử quá nóng lòng muốn lập công rồi.”
“Không đáng ngạc nhiên. Với tư cách là hoàng tử, nếu ngài ấy không chiếm được Peshawar trước khi đức vua thân chinh ra trận thì thật xấu hổ.”
“Khi ấy, không chỉ hoàng tử mà ngay cả chúng ta cũng khó thoát tội. Đức vua rất nghiêm khắc.’
Trong lúc bọn họ căng thẳng sợ hãi, Tarkhan chen ngang.
“Hoàng tử có lý đấy. Nếu ta không nhường công lao tiêu diệt đại quân Pars lại cho nhà vua thì ngài ấy sẽ không vui đâu.”
“Thế nghĩa là chúng ta chỉ được đánh cầm chừng thôi.”
Karluk chán nản đồng ý.
Sáng sớm hôm sau, cuộc tấn công của quân Turan dường như ác liệt hơn mọi khi. Có vẻ như họ đã quyết tâm dồn toàn lực để hạ cho bằng được thành Peshawar. Đại quân Turan có tổng cộng 6 vạn quân, tất cả đều là kỵ binh. 3 vạn quân đã bao vây thành, bắn tên liên tục, dùng thân gỗ lớn phá cổng thành, đóng cọc leo lên tường thành. Mặt khác, quân Pars ráo riết ứng phó với cuộc vây công của kẻ thù. Kubard động viên binh lính.
“Đừng lo! Có Kubard khoác lác ta ở đây! Không có người đẹp nào thì ta còn lâu mới giao pháo đài cho lũ chăn cừu đó!”
Người đàn ông này hình như tự đánh đồng biệt danh “Kubard khoác lác” của mình với những danh hiệu vinh quang như “Chiến binh của mọi chiến binh” hay “Song đao tướng quân”, khiến quân lính cười vang. Nhờ trò đùa ấy mà mọi người quên đi mệt mỏi, nâng cao tinh thần đối mặt với sức tấn công dữ dội của địch. Cách vị marzban tên Kubard này tiếp xúc với những người lính và động viên họ trước khó khăn khác hẳn với Dariun hay Kishward.
Quân Turan kéo một cỗ máy bắn đá tới. Theo thông lệ, quân Turan sẽ cho các thợ thủ công chế tạo vũ khí ngay tại chiến trường, lấy nguyên liệu từ địa phương mà họ chiếm đóng.
Tuy nhiên, hoạt động của cỗ máy này không quá lý tưởng. Sau khi bắn ra năm mươi tảng đá có kích thước bằng đầu người, cỗ mãy gần như rã rời, không thể sử dụng nữa. Quân Turan mang ra chiếc thứ hai. Farangis bắn hạ người điều khiển từ khoảng cách xa. Trong lúc bọn họ bận rộn sắp xếp người thay thế, Farangis cẩn thận nhắm vào các khớp gỗ để ráp nối, bắn ra mũi tên thứ hai. Khớp nối bằng gỗ bị bắn gãy, cỗ máy cũng đổ sụp.
Kẻ thù lẫn đồng minh đều kinh ngạc trước tài nghệ phi thường của Farangis. Sau đó, quân Turan từ bỏ máy bắn đá, bắt đầu đào hầm dưới chân thành để xông vào pháo đài. 1 vạn quân xếp khiên dưới thành, ngăn cơn mưa tên và đất đá trên cao dội xuống. Có vẻ không có kế sách nào tốt hơn để đối phó với hàng phòng ngự của quân lính thành Peshawar. Đến rạng sáng ngày thứ ba, Farangis nghĩ ra một kế. Phía cô cũng cho quân đào hầm rồi đổ đầy nước bên trong.
“Quân Pars tới!”
Tiếng hét lớn khiến binh lính Turan giật mình. Các tướng lĩnh lập tức rời giường, nhảy lên chiến mã.
Lúc đầu, quân Turan tưởng đại quân Pars kéo đến từ hướng Tây nên đã triển khai phần lớn quân lực ở phía tây đón địch. Nhưng theo kế hoạch của Narsus, quân Pars đi vòng từ phía nam của Đại lục vương lộ, tiến sang lãnh thổ vương quốc Sindhura, tiếp cận phía đông pháo đài Peshawar trong đêm tối.
Đến rạng sáng, quân Pars và quân Turan bắt đầu giao chiến ở phía đông thành Peshawar. Quân Turan bị kẹp giữa đại quân Pars bên ngoài và quân Pars trong pháo đài. Nếu chiến đấu ở vùng thảo nguyên bằng phẳng rộng lớn, họ có thể đánh ngang hàng. Nhưng lúc này họ đã mất địa lợi, chỉ có thể trơ mắt nhìn quân Pars xé nhỏ đội hình của mình. Một tướng Pars bước ra hàng đầu, hô lớn.
“Những kẻ dám lợi dụng tình thế khó khăn của chúng ta để vô cớ xâm lược kia ! Ta đã chán nghe các ngươi tự nhận là “Kẻ chinh phạt thảo nguyên" rồi. Sau này Turan các ngươi nên gọi bản thân là “Kẻ ăn xác thối trên đồng cỏ!”
Người vừa lớn tiếng quát mắng quân địch là “Tahir” Kishward, hai lưỡi gươm sáng lóa trên tay, khiển mã chỉ bằng hai chân kẹp bụng ngựa, băng băng lao về phía trước. Thấy thế, một dũng tướng của Turan cũng cưỡi ngựa lên đón đầu. Kishward thậm chí còn hăng máu hơn khi thấy kẻ thù trước mắt.
“Những tên không biết trời cao đất dày, muốn xâm chiếm nước khác để thỏa mãn lòng tham, chẳng những sẽ gánh lấy kết cục chết nơi đất khách mà còn kéo theo sự hủy diệt của cả vương quốc mình ! Ngươi có muốn nhận lấy kết cục ấy và ghi tên sử sách với danh bại tướng không?”
“Ngươi mới….”
Người đó không thể nói hết câu vì không thạo tiếng Pars. Tiếng Pars là ngôn ngữ chung của các nước trên Đại lục vương lộ nên nếu người Turan muốn giao tiếp với người Pars thì phải dùng tiếng Pars. Boila biết mình không thể cãi thắng đối phương.
“Mặc kệ ! Đánh đi!”
Lời chưa thốt hết, ngọn giáo trong tay hắn đã vung ra một đòn rất ấn tượng cả về tốc độ lẫn uy lực. Kishward khéo léo cản lại bằng thanh kiếm trên tay trái, rồi quét ngang kiếm bên tay phải. Lưỡi kiếm trắng đáng lẽ đã xén đứt cổ họng Boila nhưng vị tướng Turan dũng mãnh đã khéo léo xoay chuôi giáo, đẩy lùi đòn đánh. Hai con ngựa vọt qua, hai đối thủ đổi vị trí cho nhau.
Trong khi Kishward và Boila giao chiến, Dariun xông vào giữa doanh trại Turan. Các thuộc tướng của anh đã khéo léo phân tán lực lượng quân Turan và tiến đến cổng thành Peshawar. Những người cản đường đều bị thanh trường kiếm của Dariun chém gục, máu loang đầy đất. Nhưng kể cả chứng kiến cảnh tượng đó, vẫn có những người không biết sợ là gì.
“Kẻ mặc đồ đen kia ! Ngươi là Dariun phải không?”
Một tia sáng nguy hiểm lóe ra từ cặp mắt của chiến binh Turan. Hắn chính là jinong, theo tiếng Pars nghĩa là hoàng tử, tên Ilterish.
“Hơn 1000 ngày qua, ta chưa bao giờ thôi nung nấu ý chí báo thù cho cha mình ! Giờ đây, ngươi sẽ phải trả giá bằng mạng sống.”
Dariun không có ý định đếm xem mình đã lấy mạng bao nhiêu kẻ thù. Giết người là tội lỗi, nhưng mỗi một người anh giết là kết quả của một cuộc đấu cân bằng mà ai bước vào cũng sẵn sàng đối diện với kết cục khi thất bại, và Dariun không xấu hổ vì những gì mình làm. Dẫu đối phương có ôm lòng căm hận thì đó cũng là lẽ hiển nhiên thôi.
“Ta không biết ngươi là ai, nhưng nếu ngươi giết được ta thì sẽ không công bằng cho những người khác cũng đang muốn trả thù. Cho nên ta sẽ không chết ở đây.”
“Đừng lo ! Ta sẽ thay ngươi tạ lỗi những kẻ đó.”
Dứt lời, Ilterish lập tức tấn công. Ngay khi cuộc đối chiến chuẩn bị bắt đầu, vô số mũi tên bay tới, một trong số đó bắn xuyên cổ thú cưỡi của Ilterish. Con ngựa hí lên, còn người cưỡi chửi rủa khi cả hai cùng ngã xuống cát.
“Hẹn ngày tái chiến.”
Nói rồi, Dairun thúc ngựa ô quay về mục tiêu ban đầu, cổng thành Peshawar. Cánh cổng đã mở, và anh thấy một kỵ sĩ quen thuộc xông ra với thanh trọng kiếm.
“Ô, chẳng phải ngài Kubard đấy sao?”
Dairun mở to mắt.
“Không gặp từ trận Atropatene rồi, thật mừng khi thấy ngài bình an vô sự. Ngài cũng đến để phò trợ Thái tử điện hạ Arslan phải không?”
“Nhìn tình hình này thì trước mắt là thế.”
Vừa trả lời, thanh trọng kiếm của Kubard phát ra âm thanh nặng nề khi nó chém phải áo giáo của một kỵ binh Turan, tách đầu của kẻ đó khỏi thân thể, máu văng tung tóe. Dairun chỉ mỉm cười khi nghe câu nói đó, đồng thời vung kiếm lên.
Một cầu vồng máu xẹt ngang không trung. Hình ảnh Dariun và Kubard kề vai cầm kiếm là sự trấn an lớn nhất với những người lính Pars. Nhưng với quân Turan, hai chiến binh này chính là tai họa mang hình dáng con người. Họ bắt đầu trốn chạy khỏi những lưỡi gươm chết chóc ấy.
Tiếng tù và vang lên. Thấy tình hình thay đổi, Karluk ra lệnh cho quân lính phát tín hiệu rút lui. Quân Turan vẫn giữ được đội hình khá tốt trong trận chiến. Người lui quân đầu tiên là Boila sau khi đã giao chiến với Kishward hơn hai mươi hiệp. Hắn cất ngọn giáo và quay ngựa trước khi phân định thắng thua.
Vì quân Turan đã dốc sức công thành nhiều ngày nên giờ đây, họ đành phải tạm dừng cuộc chiến khi chưa chiếm được thành Peshawar.
Thái tử Arslan cưỡi trên mình ngựa và chú chim ưng Azrael đậu trên vai trái, bước vào pháo đài. Thành Peshawar bùng nổ trong tiếng hò reo. Lucian đón thái tử, rơi nước mắt vì nhẹ nhõm. Lúc này, quân Pars cũng nhận được tin từ vua Rajendra của Sindhura. Khi biết đại quân Pars đã vào được thành, hắn gửi 1 vạn kỵ binh, 2 vạn bộ binh cùng tượng binh đến cùng tham chiến. Tình hình được cải thiện nhanh chóng.
“Hừ, gã này vẫn luôn thích sao làm vậy!”
Kishward cười khổ, những người còn lại cũng đồng tình. Không nghi ngờ gì nữa, vua Rajendra của Sindhura vẫn luôn theo dõi diễn biến trận chiến giữa Turan và Pars, đồng thời tính toán kế sách có lợi cho mình. Dairun tin chắc Rajendra đã cầu nguyện thần linh cho đôi bên cùng tổn thất thảm trọng.
Tuy nhiên, quân Turan đã phải lui về tập trung cách pháo đài Peshawar 1 farsang về phía tây. Ngày 8 tháng 6, họ lại kéo đến trước cổng thành. Khi quân Pars chuẩn bị đối đầu với họ, một trận động đất xảy ra.
Đó là một trận động đất lớn và kéo dài. Khi cơn rung chấn dừng, tinh thần chiến đấu của hai quân Pars lẫn Turan đều bị ảnh hưởng. Họ thu gươm giáo, quay về căn cứ mà không giao tranh. Tướng lĩnh hai bên bàn nhau về trận động đất mạnh hiếm có này. Nhất là người dân Pars, họ vô cùng bàng hoàng và dấy lên trong lòng nỗi sợ hãi khó hiểu. Chỉ mong không có tai họa nào xảy đến.
“Các tinh linh đang la hét. Một cơn gió mang điềm xấu thổi về phía tây bắc.”
Nữ tư tế Farangis cau mày nhìn từ đỉnh pháo đài với vẻ lo lắng. Bên kia dãy núi hiểm trở có một con đường dốc đứng, chứa đầy những truyền thuyết lạ lùng không ai xác minh được. Ngọn núi Demavand.
Danh sách chương