Trong tất thảy những người Lusitania, người duy nhất có thể đương đầu trực tiếp với Andragoras là công tước Guiscard. Không một ai buồn để tâm đến vị vua bù nhìn Innocentius đệ thất, ngay cà Hilmes và Arslan cũng vậy.
Arslan không hay xem thường người khác, thậm chí nói với Estelle rằng chàng sẵn sàng coi vua Innocentius đệ thất là đối tượng để hòa đàm. Dù vậy, so với một người quyền lực và thông minh quá mức nổi trội như Guiscard, chàng không tránh khỏi có chút đánh giá phiến diện. Sau khi cheién thấng quân Lusitania ở trận Atroptene lần hai, Arslan quên rằng Innocentius vẫn đang là đương kim quốc vương. Ngay cả quân sư Narsus cũng không tính đến ông ta khi hoạch định các chiến lược, cả quân sự lẫn chính trị. Mọi người không nhớ đến sự tồn tại của người này. Người duy nhất để tâm đến vị vua bất tài ấy là hiệp sĩ tập sự Etoile.
Lúc này, vị vua bị rơi vào quên lãng ấy đã làm một điều không ai tin nổi, vào những giây phút cuối đời.
Dù được bảo vệ bởi thanh Rukhnabad, Arslan vẫn phải gồng hết sức mình trước sự áp đảo khủng khiếp của vua Andragoras. Ngay cả Narsus và Dariun cũng không thể động tay xen vào cuộc đối đầu giữa hai cha con nhà vua. Chẳng một ai để ý, vua Innocentius đang lặng lẽ đến sau lưng Andragoras.
Khi Andragoras định bước lên uy hiếp Arslan, bất chợt một tiếng chim lanh lảnh vang lên. Azrael bay qua cánh cửa mở rộng. Kishward cùng các thuộc tướng của Andragoras bấy giờ đã tới được cung điện.
Sự chú ý của mọi người đều đổ dồn vào cảnh tượng đó. Vua Innocentius bất ngờ vòng tay quấn chặt quanh cổ Andragoras từ sau lưng. Nghe tiếng Andragoras bất ngờ thốt lên, những người khác không thể tin vào mắt mình. Họ không hiểu chuyện gì đang diễn ra, hai chân cứng đờ, miệng há hốc, thậm chí còn quên nuốt nước bọt, chỉ trợn tròn mắt nhìn hai vị vua. Dù chuyện diễn ra ngay trước mắt, nhưng không ai hiểu thế là thế nào.
Vua Innocentius nhìn lên một góc trần nhà với đôi mắt đờ đẫn, nước dãi chảy ra bên khóe miệng.
“Lạy chúa! Chúa kính yêu ! Tôi tới của ngài sắp hoàng thành công việc cuối cùng của đời mình. Con muốn dâng cho chúa vị vua của những kẻ ngoại đạo. Xin người hãy nhận lấy!”
“Khốn kiếp, ngươi đang làm gì vậy…”
Giọng Andragoras nghẹn lại. Vị vua dũng mãnh này chắc chắn chưa từng cảm thấy sợ hãi bất cứ điều gì, cho dù có xảy đến đột ngột. Dẫu kẻ địch đông và hung hãn đến đâu, Andragoras tin rằng mình có đủ lòng dũng cảm và sức mạnh để đánh bại bằng thanh kiếm của mình. Ông ta cho rằng, rồi Dariun hay Hilmes cũng sẽ khuất phục trước ông ta mà thôi.
Tuy nhiên, giờ đây, người nắm giữ mạng sống nhà vua chẳng phải một kiếm sĩ tài ba, một anh hùng xuất chúng nào cả, mà chỉ là kẻ Andragoras coi như không tồn tại. Một tên vua bù nhìn hèn nhát, ngu xuẩn. Nhưng ông ta đang dùng thứ sức mạnh kinh hồn không biết từ đâu ra để khống chế Andragoras, kéo nhà vua về phía cửa sổ. Có vài người lính giương cung lên nhưng không dám bắn vì sợ trúng vua của họ.
Andragoras vùng vẫy chống trả nhưng Innocentius không buông tay. Vị vua xứ Lusiyania không khác nào một con đỉa khổng lồ trong hình dáng con người. Chẳng ai nghĩ cuộc đọ sức giữa hai vị vua không cùng đẳng cấp này lại thực sự diễn ra như vậy.
“Tránh ra!”
Andragoras cố gằng thúc khuỷu tay vào mặt Innocentius. Âm thanh nhức tia vang lên. Sống mũi và răng cửa vua Lusitania đều gãy, nhưng ông ta không hề bận tâm. Gương mặt đầy máu ấy vẫn nở nụ cười điên dại. Không phải ông ta cố nén đau, mà là không còn cảm nhận được đau đớn nữa.
“Chúa ơi ! Con đến đây!”
Không ai hiểu những câu tiếng Lusitania mà vị vua ấy nói, khi ông ta tung mình lên không trung.
Cả hai đều rơi từ cửa sổ tòa tháo. Tiếng kêu vang vọng đầy nỗi căm thù là lời trăn trối cuối cùng của Andragoras. Họ rơi từ độ cao 25 gaz xuống dưới, rơi mãi, đến khi chạm nền đá. Một tiếng động đinh tai nhức óc, rồi mọi người đổ ra cửa sổ nhìn xem. Hai vị vua xếp chồng lên nhau, thi thể gãy nát, biến dạng một cách kỳ dị.
Sau hồi lâu im lặng, Narsus thở dài.
“Sao có thể như vậy được? Vị vua hèn nhát bất tài nhất thế gian lại có thể giết vị vua hùng mạnh nhất….”
Tòa tháp trước đây được gọi đơn giản là Tháp bắc, nhưng sau sự kiện kinh hoàng xảy ra vào ngày 25 tháng 8 năm 321 lịch Pars, nó đã được đổi tên là Tayamineri, nghĩa là Tháp hai vua ngã xuống.
Vào ngày này, quá nhiều sự kiện xảy ra, cú sốc này nối liền cú sôcs khác. Vì thế, người ta chỉ có thể sắp xếp thông tin theo thứ tự của chúng.
“Tuy không nên nói ra, nhưng chính vua Innocentius đã tháo gỡ cho chúng ta cả đống rắc rối. Ta không thể phủ nhận.”
Kishward thì thầm với Narsus. Nếu như vua Andragoras bị Arslan hay Dariun giết chết, Kishwars sẽ kiệt quệ cả thể chất lẫn tinh thần, với tư cách là cận thần của nhà vua. Bởi vì trên danh nghĩa, vua Andragoras là vị vua hợp pháp của Pars. Kẻ hãm hại nhà vua trở thành vua kế nhiệm là điều không ai chấp nhận được.
Đối với Pars nói chung, đây là ân huệ ngoài mong đợi. Các cận thần sẽ không chia bè kết phái, chém giết lẫn nhau. Hơn nữa, nhà vua qua đời, vua nước địch cũng chết, nếu thái tử còn sống thì đương nhiên ngài là người duy nhất có thể kế nhiệm ngai vàng. Arslan còn chưa vượt qua nỗi bàng hoàng, nhưng chắc chắn chàng sẽ sớm bình tĩnh lại và đứng lên lãnh đạo mọi người.
Cái chết của vua Andragoras khiến chàng khó lòng chấp nhận được. Tuy nhiên, chàng cũng biết cái chết ấy đã cứu sống rất nhiều người. Nếu nhà vua vẫn còn, đất nước sẽ chia làm hai nửa, và ông ta sẽ tranh giành ngôi báu với chính đứa con của mình. Nói một cách nào đó, Andragoras đã tự cứu mình đấy thôi. Lịch sử sẽ ghi nhận rằng ông đồng quy vô tận với kẻ thù xâm lược, hy sinh cho tổ quốc. Đó chẳng phải kết thúc có hậu hay sao?
Nhưng mọi chuyện còn chưa kết thúc, cuộc hiến tế vẫn đang diễn ra.
Tối hôm ấy, thành Ecbatana rơi vào trạng thái hỗn loạn.
Quân Pars bằng lòng quy về dưới trướng thái tử Arslan, tình hình chiến sự tạm thời lắng xuống. Nếu 3 vạn quân của Hilmes cầm vũ khí lên, kiên quyết kháng cự trận chiến đẫm máu là khó lòng tránh khỏi. Nhưng may sao Hilmes lúc này còn suy sụp hơn cả Arslan, Zandeh cũng bị Dariun đánh bại và giam vào ngục. Sam lệnh cho binh lính đầu hàng. Quân Pars lúc trước chia làm ba phe để tranh giành thủ đô, nay quy về một mối, tránh được bi kịch tàn sát lẫn nhau.
Các cổng thành lần nữa mở ra. Lương thực được vận chuyển từ Gilan tới, phân phát cho dân chúng. Cái tên thái tử Arslan được hết lòng tung hô. Việc Arslan đánh bại quân Lusitania trên bình nguyên Atropatene cũng được Gurazeh cho thuộc hạ đi khắp nơi tuyên truyền, thổi phồng, phóng đại, khiến cho thái tử trở thành anh hùng cứu quốc.
Ba vị marzban sánh vai nhau bước đi trên hàng lang cung điện. Họ chính là Dariun, Kishward và Kubard. Nếu xảy ra sai sót gì, có lẽ bọn họ đã cầm kiếm chiến đấu vói nhau cho đến chết. Nhưng may sau bây giờ đã ổn thỏa, họ có thể cùng trò chuyện thân mật như xưa. Ai cũng có cảm nghĩ riêng trước cái chế thê thảm của vua Andragoras, nhưng không đề cập đến.
Tiếng reo hò của người dân hòa vào làn gió đêm.
Kishward vuốt bộ râu đen nhánh của mình.
“Thái tử điện hạ đã giành được quyền kiểm soát Ecbatana chỉ sau một đêm, thật đáng kinh ngạc. Giờ không ai có thể tranh đoạt với ngài được nữa.”
“Đây mới thực sự là một cuộc công thành xuất sắc. Ngài Narsus thống trị thiên hạ chỉ vài tháng kể từ khi rời núi Barshur.”
Kubard cười híp mắt, nói lời đùa cợt nhưng không có chút ác ý nào. Để thái tử Arslan, người có vị trí xa vời nhất trong cuộc chiến đoạt ngai vàng, có thể “thống trị” thiên hạ, tài năng của Narsus vô cùng đáng ghi nhận, và đó là lời khen đúng kiểu Kubard. Vị tướng một mắt cuối cùng cũng nói một câu khẳng định chí hướng của mình.
“Cho nên kết quả là ta phải theo phò tá người đó thôi. Than ôi, còn làm thế nào được bây giờ.”
“Vì Narsus là bậc thầy trong việc sử dụng thế giới như khung vải để vẽ tranh mà.”
Dariun nói. Nghe vậy, Kishward không giấu được vẻ bối rối trên gương mặt luôn nghiêm trang.
“Nhưng ngài Narsus thật sự định trở thành họa sĩ cung đình sao? Lạ thật. Ta rất lo lắng cho tình hình bổ nhiệm quan lại của thái tử điện hạ.”
“Có lần hắn ta nhìn ta và nói khuôn mặt ta rất đáng để làm mẫu vẽ tranh. Thế là ta van xin hắn đừng vẽ ta, tìm nạn nhân nào khác đi.”
Kubard chưa kể hết chuyện, một tiếng hét đã vang lên.
Sau khi xác nhận vị trí, ba vị marzban về phía nơi phát ra âm thanh. Tại đó, họ gặp Narsus, Elam, Jaswant và vài người khác gần phòng ngủ của thái tử. Một con rắn lớn màu đen xám dài khoảng 4 gaz đang trườn trên hành lang mờ mịt, quấn quanh một thanh kiếm. Đó chính là gươm báu Rukhnabad.
“Thanh gươm…!”
Ba người cùng xông tới. Ngay cả Kubard cũng vứt bỏ vẻ say xỉn, trở nên nghiêm túc và thận trọng như giữa trận chiến trên đồng bằng Shahrud. Ba chiến binh mạnh nhất xứ Pars đồng loạt rút kiếm. Uy lực tỏa ra từ họ có thể khiến cả vạn kỵ binh phải khiếp sợ.
Tuy nhiên, con rắn phát ra một tiếng rít như thể chế nhạo họ, tiếp tục quấn lấy thanh kiếm mà bò đi với tư thế lạ lùng. Một người nhảy ra chắn trước, chính là marzban Sam. Ông ta vung kiếm chém, nhưng chuyển động của con rắn nằm ngoài sức tưởngt tượng của con người. Nó quấn lấy thanh Rukhnabad, vọt lên không trung, quấn lấy nửa thân trên của Sam. Sam buông kiếm, giữ lấy con rắn bằng cả hai tay.
“Ngài Sam!’
“Mau lên! Giết con quái vật này đi!”
Giọng Sam nghẹn lại. Tóc ông ta chuyển dần từ đen sang xám. Ba vị marzban không khỏi sững sờ. Thứ ma thuật kỳ lạ nào đó đang hút cạn sinh mệnh ông ta.
Trường kiếm của Dariun lóe lên. Các vị tướng không khỏi kinh hãi khi nhát chém đầy uy lực của anh ta giáng xuống vảy rắn rồi bật ngược lại với một âm thanh chat chúa. Kubard cũng vung thanh kiếm khổng lồ tấn công, nhưng con rắn chẳng mảy may tổn hại, vẫn quấn chặt quanh cổ Sam. Đó chẳng phải tài nghệ cao siêu nào, mà chỉ đơn giản, con rắn ấy không thể bị giết bởi đao kiếm thông thường.
Cơ thể Sam dần gục xuống. Con rắn thản nhiên cuộn quanh kiếm, khéo léo dùng đầu đỡ chuôi kiếm. Đúng lúc này, thái tử Arslan chạy tới. Chàng vừa thức dậy, chỉ mặc áo ngắn tay, không mang giáp, thứ vũ khí duy nhất là một con dao găm. Chàng nhìn thẳng vào mắt con rắng, cố gắng bình tĩnh.
“Bệ hạ, cẩn thận!”
Dariun hét lên. Con rắn lập tức xông đến tấn công. Dariun nhanh chóng vung tay trái, đỡ lấy hàm răng sắc nhọn của nó bằng con dao găm, đồng thời tay phải duỗi ra, nắm lấy chuôi kiếm Rukhnabad.
Ngay sau đó, lưỡi gươm Rukhnabad rời bỏ. Vì thân rắn chỉ quấn quanh bao nên chỉ cần đầu nó rời chuôi kiếm thì lưỡi kiếm có thể lấy ra.
Con rắn bị Arslan dụ vào bẫy, đánh mất báu vật. No buông bao kiếm ra, cuộn tròn mình lại trên mặt đất.
Thân mình xám đen của nó vặn vẹo vì tức tối, cố gắng trốn thoát. Những nơi nó bò qua, nọc độc chảy lênh láng, mùi hôi thối bốc lên. Con rắn đang cố hết sức lao nhanh thì bỗng nhiên dừng lại. Trước mặt nó là hai cung thủ bậc nhất xứ Pars, Gieve và Farangis, với tên đã lên dây.
Một mũi tên do Farangis bắn xuyên qua mắt rắn. Nó dùng sức nhảy vọt lên, định tấn công nữ tư tế, thì lại bị Gieve bắn mũi tên thứ hai xuyên vào cổ họng. Nếu sàn làm bằng gỗ thì có lẽ đầu nó đã bị ghim xuống rồi. Thân rắn có lớp vảy che kín, không thể tổn hại, nhưng nữ tư tế và chàng hát rong đều nhắm vào điểm yếu nhất.
Con rắn đau đớn phát ra những tiếng rít ghê tởm.
Arslan vung gươm Rukhnabad. Tia sáng trắng lóa xẻ đầu và thân rắn làm hai, tiếng xương gãy vang vọng trong tường đá.
Thân rắn rơi xuống đất, co giật vài lần rồi bất động. Tuy nhiên, đầu nó vẫn còn sống. Dù bị găm hai mũi tên, nó vẫn nhe nanh xông về phía Arslan như một mũi tên.
“Lửa!”
Farangis hét lên. Hiểu ý cô, Elam chạy đến góc tường, ném ngọn đuốc vào đầu con rắn. Đầu rắn dính phải dầu trên đuốc, bốc cháy ầm ầm như một quả cầu lửa. Lúc này, Rukhnabal lần thứ hai lóe sáng như chớp đông, xẻ đôi cái đầu thành hai nửa.
Cảnh tượng khó tin hiện ra trước mắt mọi người. Cái xác con rắn bắt đầu ro rút, biến dạng, cuối cùng thành một hình người trong bộ áo choàng xám đen, một cái xác không đầu, nhỏ bé đến kỳ lạ.
Những chiến binh dũng cảm nhất xứ Pars cũng không khỏi rùng mình ghê tởm.
“Con quái vật này là thứ gì vậy? Đồng lõa với Zahhak à?”
“Thật kinh khủng. Ta làm gì với cái xác này đây?”
“Tốt nhất là đổ dầu lên, đốt cháy rồi rải tro.”
Trong lúc Gieve và các marzban trò chuyện, Arslan tra thanh Rukhnabad vào vỏ. Chàng đưa kiếm cho Elam và quỳ xuống bên cạnh Sam đang nằm trên mặt đất. Chàng đỡ Sam dậy, để ông gối đầu lên lòng mình, khẽ lay gọi. Lúc này ông đã bị con rắn quỷ quái hút hết sinh mệnh, biến thành một ông cụ gầy gò. Sam mở mắt, trút tất cả sức lực cuối cùng vào câu nói.
“Điện hạ, à không, bệ hạ, xin người hãy trở thành một vị vua tốt. Thần bất tài, không phò trợ được người, chỉ mong người mang lại bình yên cho xứ Pars….”
Nói xong, vị tướng bất hạnh trút hơi thở cuối cùng. Arslan nhắm mắt, cúi đầu tiếcc thương. Giá như có cơ hội trò chuyện nhiều hơn với người này, họ sẽ hiểu được nhau. Dù không rõ Sam nghĩ gì, Arslan cũng biết lâu nay ông sống không hề yên ổn. Mỗi ngày trôi qua là mỗi lần dằn vặt lương tâm mình.
Đêm đã trôi từ lâu, trời gần rạng sáng nhưng cổng thành Ecbatana vẫn mở. Tiếng hát tiếng đàn của mọi người rộn vang khắp con phố. Không còn kẻ thù nào đến tấn công. Người dân thoát khỏi gong cùm của những ngày bị giam cầm. Niềm vui vỡ òa, kéo dài đến tận bình minh, hòa với tiếng sơn ca tưng bùng hót.
Ngày mai, công việc kiến thiết đầy khó khăn mới lại bắt đầu. Tối nay hãy cứ tiệc tùng cho thỏa. Ai cũng nghĩ thế. Đàn ông ca hát, phụ nữ nhảy múa, trẻ em nô đùa. Cả thú nuôi cũng chạy nhảy tung tăng. Ecbatana hồi sinh dáng vẻ thành phố ước mơ như trước.
Hai người cưỡi ngựa lặng lẽ rời khỏi cổng thành phía nam trong khi dân chúng hoa ca, bỏ lại dòng người hối hả, họ cứ thế đi từ sáng đến đêm. Đối với họ, ban đêm là lúc yên bình nhất. Hai người một nam một nữ cưỡi chung ngựa. Người đàn ông che nửa khuôn mặt bên phải vủa mình trong tấm khăn, còn người phụ nữ nhắm chặt đôi mắt.
Họ không có lãnh thổ, không có danh tính. Hoàng tử xứ Pars và công chúa xứ Maryam chỉ có nhau. Nếu trật tự và truyền thống lâu nay vẫn còn, họ đã là đôi tiên đồng ngọc nữ được người đời tung hô, cùng nhau sống trong vinh quang và quyền lực. Nhưng giờ đã khác, đất nước không còn trong tay họ nữa.
“Công chúa Irina, nàng mới xứng đội vương miện vàng.”
“Hoàng tử Hilmes, thiếp không cần vương miện nào cả. Vì nếu không sinh ra trong hoàng tộc, thiếp đã hạnh phúc biết bao.”
“Nhưng ta vẫn còn những chấp niệm trong lòng.”
Hilmes cười khổ sở, quay đầu nhìn cổng thành. Tiếng ca hát và ánh sáng tưng bừng vẫn vang vọng đến đây.
Hắn là ai? Khi những niềm tin suốt thời niên thiếu đã sụp đổ, Hilmes đánh mất ý nghĩa tồn tại của chính mình. Hóa ra thứ hắn vẫn luôn tìm chỉ là một cái vương miện bằng cát. Dù Hilmes thông minh xuất chúng, mạnh mẽ hơn người, nhưng trần đời không nơi nào dung hấn. Hắn từng làm tất cả để giành lấy ngai vàng, để rồi nhận ra mình chỉ là tên hề trong vở kịch của chính bản thân. Giờ hắn mất đi mọi thứ, chẳng còn gì, ngoài Irina.
Irina hỏi khi nghe tiếng Hilmes thở dài.
“Ngài Zandeh sao rồi?”
“Cậu ta nói muốn theo ta, nhưng ta không đồng ý. Chắc mai hắn sẽ đi lang thang đâu đó thôi. Ta không thể để hắn lãng phí thời gian với ta, khi cuộc đời này ngắn ngủi như vậy.”
Cái chết của Sam cũng khiến Hilmes hiểu ra. Chỉ vì hắn mải mê theo đuổi chiếc vương miện ảo ảnh, nhiều người tài năng hết lòng vì hắn đã hy sinh. Hilmes không hối hận, nhưng hắn buộc phải thừa nhận mình thất bại rồi. Có lẽ một ngày kia, tham vọng trong hắn sẽ lần nữa rực cháy? Nhưng giờ thứ thứ hắn cần chỉ là một chiếc giường để ngả lưng, tìm giấc ngủ yên lành.
Sau cái chết của vua Andragoras và vua Innocentius, cũng như sự ra đi của hoàng tử Hilmes, chỉ còn lại hoàng hậu Tahamine. Nhưng sau cùng, bà quyết định rời kinh đô Ecbatana. Kết thúc lễ tang của vua Andragoras, bà xin rời giá đến một vùng đất xinh đẹp nằm ở phía tây nam vương quốc Pars. Nơi đó từng là thủ đô của công quốc Badashkhan.
Khi thái tử hỏi nên đáp lại yêu cầu của hoàng hậu thế nào, Narsus nói.
“Cứ theo ý lệnh bà. Ai cũng phải dựa vào sức mình để sống tiếp. Hoàng tử Hilmes cũng thế thôi. Thần xin lỗi, nhưng điện hạ không thể cứu rỗi được họ. Hãy để họ tự lo đi.”
“Ta hiểu rồi. Ta sẽ nghe lời ngài Narsus.”
Dù có là thần thánh cũng khó lòng cứu vớt được trái tim một số người, chứ đừng nói Arslan, một vị vua vẫn còn non nớt. Chàng còn nhiều việc phải làm, làm tất cả những gì mình có thể.
Trước lễ đăng quang chính thức, Arslan đã trải qua vài ngày bị cô lập khỏi những người bạn đồng hành thân thiết bấy lâu. Đến ngày 2 tháng 9, lúc chạng vạng, chàng được hộ tống ra ngoài thành bởi 15 kỵ binh, trong đó có Dariun và Narsus. Cuối cùng, chàng bảo các thuộc hạ chờ dưới chân đồi, một mình cưỡi ngựa lên đồng cỏ. Chàng đến để tiễn đưa hiệp sĩ tập sự Estelle trở lại quê nhà.
Estelle muốn đưa hài cốt vua Innocentius đệ thất về cố quốc Lusitania của cô. Với mọi người, ông ta là vị vua đáng khinh, chỉ có Estelle là thần dân trung thành duy nhất.
Khi nghe Estelle quyết định, Arslan không ngăn cô. Chàng biết mình không ngăn được. Những gì chàng có thể làm là đưa cô trở lại quê hương an toàn.
Nếu đi Maryam bằng đường bộ thì có thể bị cuốn vào cuộc chiến giữa vua Guiscard và tổng giám mục Bodin, cho nên tốt nhất là đi đường biển tới quốc gia láng giềng Mirs. Mà để làm vậy thì cần có lộ phí và người hộ tống.
Đương nhiên Arslan đã lo hết lộ phí cho chuyến đi này. “Con ma trắng” người Lusitania cũng theo Estelle về quê hương. Biết đâu ở đó, anh ta sẽ tìm lại được quá khứ đã mất của mình.
“Cảm ơn anh bấy lâu nay.”
Estelle trịnh trọng nói. Một nhóm kỵ binh đang từ từ tiến về phía tây trên Đại lục vương lộ. Đó là những người hộ tống Estelle đến Mirs. Arslan cũng đáp.
“Hãy cẩn thận nhé.”
Dù không thể nào che giấu cảm xúc trên gương mặt nhưng giọng nói của chàng nghe rất bình thường. Arslan bỗng nhiên ước gì mình có tài thơ ca như Gieve thì lúc này đã chẳng lúng túng đến vậy.
“Nếu đến Pars lần nữa, chúng ta vẫn hết lòng chào đón cô.”
Những lời này quá phi thực tế. Sau khi Estelle trở về quê hương, cô sẽ đối mặt với vô số vấn đề như lãnh địa, quyền thừa kế, tước hiệp sĩ….Cô vẫn phải có trách nhiệm với gia đình mình, những người sống sót sau thảm họa.
“Anh đến Lusitania thì tốt hơn.”
Estelle nói, hai má đỏ bừng như tức giận.
“Lớn thêm chút nữa, anh sẽ trở thành một tên ngoại đạo đích thực, rồi sẽ mọc đuôi và sừng ra đúng không? Nhưng dù anh có thay đổi thế nào, tôi vẫn nhận ra.”
Estelle kéo dây cương ngựa, quay đầu lại, nói những lời cuối cùng.
“Vì tôi biết con người thật của anh.”
Câu này cũng giống với những gì Dariun từng nói với Arslan lúc trước. Dứt lời, Estelle đá vào bụng ngựa, phóng đi. Arslan không nói, chỉ vẫy tay nhìn bóng dáng cô xa dần. Khi Estelle quay đầu lại, hình ảnh Arslan như rực cháy trước bình minh. Cô gia nhập đoàn hộ tống, đi mãi tới khi chỉ nhỏ bằng chấm đen. Lúc ấy Arslan mới quay ngựa.
Còn nhiều việc chàng phải làm.
Nào là khôi phục kinh đô Ecbatana bị bỏ hoang đã lâu, sửa chữa kênh dẫn nước, cung cấp lương thực cho dân chúng, chôn cất người chết, tổ chức quốc tang cho vua Andragoras, tu sửa lăng mộ vua anh hùng Kai Khosrow…. À, mẹ ruột và vợ chồng người bảo mẫu từng chăm sóc chàng trước kia cũng nên được an táng lại cho tử tế. Nghe như thế toàn là chôn với cất. Thế nhưng chàng cần thể hiện lòng biết ơn những người đã cho chàng cuộc sống này. Xử lý xong, lễ đăng quang sẽ diễn ra. Chàng sắp trở thành vị vua thứ 19, và tiến hàng cuộc cải cách bằng chủ trương được ưu tiên hàng đầu là xóa bỏ chế độ nô lệ. Ngoài ra, chàng cũng phải hòa đàm với vua Rajendra của nước bạn Sindhura, gửi thư cho các nước láng giềng khác. Thực sự vô cùng bận rộn.
Arslan phi ngựa quay lại chỗ những người bạn đồng hành đang chờ đợi mình. Azrael bay vút trên đầu họ.
Dariun, Narsus, Gieve, Farangis, Alfarid, Jaswant, Kishward, Kubard, Merlane, Gurazeh, Isfan, Tus, Jaravand và Jimsa, những chiến binh được người đời sau gọi là “Mười sáu vị tướng giải phóng”, nay đã quy tụ được 15 vị.
Triều đại của Vua giải phóng sẽ mở ra trang sử mới.
Cùng lúc đó, có những người quay lưng với ánh sáng và niềm vui, ẩn mình trong pháo đài ẩm ướt tối tăm của riêng họ, rền rĩ hát khúc ca nguyền rủa lẻ thù. Sâu trong lòng đất ở kinh đô hoàng gia Ecbatana, bốn pháp sư rúc đầu vào nhau. Trước kia có 8 người, bao gồm cả chủ nhân của họ, nhưng giờ chỉ còn một nửa. Ba đệ tử bị giết, cuối cùng “người thầy đáng kính” cũng qua đời. Tuy nhiên, họ không tuyệt vọng. Gurgin lên tiếng trước.
“Đừng nuồn, chủ nhân đã có linh cảm từ trước. Ngài đoán rằng linh lực của Kai Khosrow sẽ trỗi dậy nên chúng ta mới vội đi bắt tên Chiến binh điên cuồng Ilterish đề hồi sinh cho người.”
“Vậy còn Xà vương Zahhak thì sao?”
Một gã tên Gundi hỏi. Gurgan đáp một cách hiển nhiên.
“Đương nhiên là nằm trong dự đoán. Hiện giờ, không có linh hồn nào trống trị thân thể của Andragoras.”
Nghe tiếng “À!” của mọi người, Gurgin thì thầm với các đồng đội.
“Hãy để những kẻ bất kính với Xà vương Zahhak tận hưởng chiến thắng của chúng đi. Ba năm, chỉ ba năm là đủ. Khi đó, chúng sẽ rơi từ đỉnh cao vinh quang xuống đáy sâu tuyệt vọng. Leo càng cao, rơi càng sâu!”
Tiếng cười vang lên, dâng trong lòng đất, nhưng biến mất trước khi chạm tới bề mặt bên trên, nên những con người đi lại trên đó hồn nhiên không hay biết gì về âm mưu này.
Đó là ngày 2 tháng 9 năm 321 lịch Pars.
-----------------------------
Lời editor :
Ước gì đây là kết thúc.
Các bạn không nghe nhầm đâu.
Ước gì Tanaka Yoshiki sensei chỉ viết đến đây thôi, và tất cả những gì chúng ta biết là Arslan giành lại kinh đô, trở thành một vị vua lưu danh sử sách. Không có những bi kịch máu chó về sau, cũng không có những nỗi thất vọng khiến con tim độc giả tan nát.
Bộ tiểu thuyết vẫn còn một phần 2 nữa, kéo dài đến tập 16. Nhưng mình không có ý định dịch tiếp. Lý do cụ thể, mình sẽ phân tích sau. Còn rất nhiều điều mình muốn chia sẻ về bộ truyện này.
À nhưng mà các bạn đừng lo. Chúng ta đã có ánh sáng cuối đường hầm là bộ manga chuyển thể của Arakawa Hiromu sensei. Truyện đã đi dần đến hồi kết rồi, qua trận Atropatene lần hai rồi. Và nhìn xu hướng này, có lẽ sensei sẽ đập đi xây lại phần cuối. Ta hoàn toàn có thể kỳ vọng câu chuyện kết thúc trọn vẹn mà không ai phải hy sinh.
Arslan không hay xem thường người khác, thậm chí nói với Estelle rằng chàng sẵn sàng coi vua Innocentius đệ thất là đối tượng để hòa đàm. Dù vậy, so với một người quyền lực và thông minh quá mức nổi trội như Guiscard, chàng không tránh khỏi có chút đánh giá phiến diện. Sau khi cheién thấng quân Lusitania ở trận Atroptene lần hai, Arslan quên rằng Innocentius vẫn đang là đương kim quốc vương. Ngay cả quân sư Narsus cũng không tính đến ông ta khi hoạch định các chiến lược, cả quân sự lẫn chính trị. Mọi người không nhớ đến sự tồn tại của người này. Người duy nhất để tâm đến vị vua bất tài ấy là hiệp sĩ tập sự Etoile.
Lúc này, vị vua bị rơi vào quên lãng ấy đã làm một điều không ai tin nổi, vào những giây phút cuối đời.
Dù được bảo vệ bởi thanh Rukhnabad, Arslan vẫn phải gồng hết sức mình trước sự áp đảo khủng khiếp của vua Andragoras. Ngay cả Narsus và Dariun cũng không thể động tay xen vào cuộc đối đầu giữa hai cha con nhà vua. Chẳng một ai để ý, vua Innocentius đang lặng lẽ đến sau lưng Andragoras.
Khi Andragoras định bước lên uy hiếp Arslan, bất chợt một tiếng chim lanh lảnh vang lên. Azrael bay qua cánh cửa mở rộng. Kishward cùng các thuộc tướng của Andragoras bấy giờ đã tới được cung điện.
Sự chú ý của mọi người đều đổ dồn vào cảnh tượng đó. Vua Innocentius bất ngờ vòng tay quấn chặt quanh cổ Andragoras từ sau lưng. Nghe tiếng Andragoras bất ngờ thốt lên, những người khác không thể tin vào mắt mình. Họ không hiểu chuyện gì đang diễn ra, hai chân cứng đờ, miệng há hốc, thậm chí còn quên nuốt nước bọt, chỉ trợn tròn mắt nhìn hai vị vua. Dù chuyện diễn ra ngay trước mắt, nhưng không ai hiểu thế là thế nào.
Vua Innocentius nhìn lên một góc trần nhà với đôi mắt đờ đẫn, nước dãi chảy ra bên khóe miệng.
“Lạy chúa! Chúa kính yêu ! Tôi tới của ngài sắp hoàng thành công việc cuối cùng của đời mình. Con muốn dâng cho chúa vị vua của những kẻ ngoại đạo. Xin người hãy nhận lấy!”
“Khốn kiếp, ngươi đang làm gì vậy…”
Giọng Andragoras nghẹn lại. Vị vua dũng mãnh này chắc chắn chưa từng cảm thấy sợ hãi bất cứ điều gì, cho dù có xảy đến đột ngột. Dẫu kẻ địch đông và hung hãn đến đâu, Andragoras tin rằng mình có đủ lòng dũng cảm và sức mạnh để đánh bại bằng thanh kiếm của mình. Ông ta cho rằng, rồi Dariun hay Hilmes cũng sẽ khuất phục trước ông ta mà thôi.
Tuy nhiên, giờ đây, người nắm giữ mạng sống nhà vua chẳng phải một kiếm sĩ tài ba, một anh hùng xuất chúng nào cả, mà chỉ là kẻ Andragoras coi như không tồn tại. Một tên vua bù nhìn hèn nhát, ngu xuẩn. Nhưng ông ta đang dùng thứ sức mạnh kinh hồn không biết từ đâu ra để khống chế Andragoras, kéo nhà vua về phía cửa sổ. Có vài người lính giương cung lên nhưng không dám bắn vì sợ trúng vua của họ.
Andragoras vùng vẫy chống trả nhưng Innocentius không buông tay. Vị vua xứ Lusiyania không khác nào một con đỉa khổng lồ trong hình dáng con người. Chẳng ai nghĩ cuộc đọ sức giữa hai vị vua không cùng đẳng cấp này lại thực sự diễn ra như vậy.
“Tránh ra!”
Andragoras cố gằng thúc khuỷu tay vào mặt Innocentius. Âm thanh nhức tia vang lên. Sống mũi và răng cửa vua Lusitania đều gãy, nhưng ông ta không hề bận tâm. Gương mặt đầy máu ấy vẫn nở nụ cười điên dại. Không phải ông ta cố nén đau, mà là không còn cảm nhận được đau đớn nữa.
“Chúa ơi ! Con đến đây!”
Không ai hiểu những câu tiếng Lusitania mà vị vua ấy nói, khi ông ta tung mình lên không trung.
Cả hai đều rơi từ cửa sổ tòa tháo. Tiếng kêu vang vọng đầy nỗi căm thù là lời trăn trối cuối cùng của Andragoras. Họ rơi từ độ cao 25 gaz xuống dưới, rơi mãi, đến khi chạm nền đá. Một tiếng động đinh tai nhức óc, rồi mọi người đổ ra cửa sổ nhìn xem. Hai vị vua xếp chồng lên nhau, thi thể gãy nát, biến dạng một cách kỳ dị.
Sau hồi lâu im lặng, Narsus thở dài.
“Sao có thể như vậy được? Vị vua hèn nhát bất tài nhất thế gian lại có thể giết vị vua hùng mạnh nhất….”
Tòa tháp trước đây được gọi đơn giản là Tháp bắc, nhưng sau sự kiện kinh hoàng xảy ra vào ngày 25 tháng 8 năm 321 lịch Pars, nó đã được đổi tên là Tayamineri, nghĩa là Tháp hai vua ngã xuống.
Vào ngày này, quá nhiều sự kiện xảy ra, cú sốc này nối liền cú sôcs khác. Vì thế, người ta chỉ có thể sắp xếp thông tin theo thứ tự của chúng.
“Tuy không nên nói ra, nhưng chính vua Innocentius đã tháo gỡ cho chúng ta cả đống rắc rối. Ta không thể phủ nhận.”
Kishward thì thầm với Narsus. Nếu như vua Andragoras bị Arslan hay Dariun giết chết, Kishwars sẽ kiệt quệ cả thể chất lẫn tinh thần, với tư cách là cận thần của nhà vua. Bởi vì trên danh nghĩa, vua Andragoras là vị vua hợp pháp của Pars. Kẻ hãm hại nhà vua trở thành vua kế nhiệm là điều không ai chấp nhận được.
Đối với Pars nói chung, đây là ân huệ ngoài mong đợi. Các cận thần sẽ không chia bè kết phái, chém giết lẫn nhau. Hơn nữa, nhà vua qua đời, vua nước địch cũng chết, nếu thái tử còn sống thì đương nhiên ngài là người duy nhất có thể kế nhiệm ngai vàng. Arslan còn chưa vượt qua nỗi bàng hoàng, nhưng chắc chắn chàng sẽ sớm bình tĩnh lại và đứng lên lãnh đạo mọi người.
Cái chết của vua Andragoras khiến chàng khó lòng chấp nhận được. Tuy nhiên, chàng cũng biết cái chết ấy đã cứu sống rất nhiều người. Nếu nhà vua vẫn còn, đất nước sẽ chia làm hai nửa, và ông ta sẽ tranh giành ngôi báu với chính đứa con của mình. Nói một cách nào đó, Andragoras đã tự cứu mình đấy thôi. Lịch sử sẽ ghi nhận rằng ông đồng quy vô tận với kẻ thù xâm lược, hy sinh cho tổ quốc. Đó chẳng phải kết thúc có hậu hay sao?
Nhưng mọi chuyện còn chưa kết thúc, cuộc hiến tế vẫn đang diễn ra.
Tối hôm ấy, thành Ecbatana rơi vào trạng thái hỗn loạn.
Quân Pars bằng lòng quy về dưới trướng thái tử Arslan, tình hình chiến sự tạm thời lắng xuống. Nếu 3 vạn quân của Hilmes cầm vũ khí lên, kiên quyết kháng cự trận chiến đẫm máu là khó lòng tránh khỏi. Nhưng may sao Hilmes lúc này còn suy sụp hơn cả Arslan, Zandeh cũng bị Dariun đánh bại và giam vào ngục. Sam lệnh cho binh lính đầu hàng. Quân Pars lúc trước chia làm ba phe để tranh giành thủ đô, nay quy về một mối, tránh được bi kịch tàn sát lẫn nhau.
Các cổng thành lần nữa mở ra. Lương thực được vận chuyển từ Gilan tới, phân phát cho dân chúng. Cái tên thái tử Arslan được hết lòng tung hô. Việc Arslan đánh bại quân Lusitania trên bình nguyên Atropatene cũng được Gurazeh cho thuộc hạ đi khắp nơi tuyên truyền, thổi phồng, phóng đại, khiến cho thái tử trở thành anh hùng cứu quốc.
Ba vị marzban sánh vai nhau bước đi trên hàng lang cung điện. Họ chính là Dariun, Kishward và Kubard. Nếu xảy ra sai sót gì, có lẽ bọn họ đã cầm kiếm chiến đấu vói nhau cho đến chết. Nhưng may sau bây giờ đã ổn thỏa, họ có thể cùng trò chuyện thân mật như xưa. Ai cũng có cảm nghĩ riêng trước cái chế thê thảm của vua Andragoras, nhưng không đề cập đến.
Tiếng reo hò của người dân hòa vào làn gió đêm.
Kishward vuốt bộ râu đen nhánh của mình.
“Thái tử điện hạ đã giành được quyền kiểm soát Ecbatana chỉ sau một đêm, thật đáng kinh ngạc. Giờ không ai có thể tranh đoạt với ngài được nữa.”
“Đây mới thực sự là một cuộc công thành xuất sắc. Ngài Narsus thống trị thiên hạ chỉ vài tháng kể từ khi rời núi Barshur.”
Kubard cười híp mắt, nói lời đùa cợt nhưng không có chút ác ý nào. Để thái tử Arslan, người có vị trí xa vời nhất trong cuộc chiến đoạt ngai vàng, có thể “thống trị” thiên hạ, tài năng của Narsus vô cùng đáng ghi nhận, và đó là lời khen đúng kiểu Kubard. Vị tướng một mắt cuối cùng cũng nói một câu khẳng định chí hướng của mình.
“Cho nên kết quả là ta phải theo phò tá người đó thôi. Than ôi, còn làm thế nào được bây giờ.”
“Vì Narsus là bậc thầy trong việc sử dụng thế giới như khung vải để vẽ tranh mà.”
Dariun nói. Nghe vậy, Kishward không giấu được vẻ bối rối trên gương mặt luôn nghiêm trang.
“Nhưng ngài Narsus thật sự định trở thành họa sĩ cung đình sao? Lạ thật. Ta rất lo lắng cho tình hình bổ nhiệm quan lại của thái tử điện hạ.”
“Có lần hắn ta nhìn ta và nói khuôn mặt ta rất đáng để làm mẫu vẽ tranh. Thế là ta van xin hắn đừng vẽ ta, tìm nạn nhân nào khác đi.”
Kubard chưa kể hết chuyện, một tiếng hét đã vang lên.
Sau khi xác nhận vị trí, ba vị marzban về phía nơi phát ra âm thanh. Tại đó, họ gặp Narsus, Elam, Jaswant và vài người khác gần phòng ngủ của thái tử. Một con rắn lớn màu đen xám dài khoảng 4 gaz đang trườn trên hành lang mờ mịt, quấn quanh một thanh kiếm. Đó chính là gươm báu Rukhnabad.
“Thanh gươm…!”
Ba người cùng xông tới. Ngay cả Kubard cũng vứt bỏ vẻ say xỉn, trở nên nghiêm túc và thận trọng như giữa trận chiến trên đồng bằng Shahrud. Ba chiến binh mạnh nhất xứ Pars đồng loạt rút kiếm. Uy lực tỏa ra từ họ có thể khiến cả vạn kỵ binh phải khiếp sợ.
Tuy nhiên, con rắn phát ra một tiếng rít như thể chế nhạo họ, tiếp tục quấn lấy thanh kiếm mà bò đi với tư thế lạ lùng. Một người nhảy ra chắn trước, chính là marzban Sam. Ông ta vung kiếm chém, nhưng chuyển động của con rắn nằm ngoài sức tưởngt tượng của con người. Nó quấn lấy thanh Rukhnabad, vọt lên không trung, quấn lấy nửa thân trên của Sam. Sam buông kiếm, giữ lấy con rắn bằng cả hai tay.
“Ngài Sam!’
“Mau lên! Giết con quái vật này đi!”
Giọng Sam nghẹn lại. Tóc ông ta chuyển dần từ đen sang xám. Ba vị marzban không khỏi sững sờ. Thứ ma thuật kỳ lạ nào đó đang hút cạn sinh mệnh ông ta.
Trường kiếm của Dariun lóe lên. Các vị tướng không khỏi kinh hãi khi nhát chém đầy uy lực của anh ta giáng xuống vảy rắn rồi bật ngược lại với một âm thanh chat chúa. Kubard cũng vung thanh kiếm khổng lồ tấn công, nhưng con rắn chẳng mảy may tổn hại, vẫn quấn chặt quanh cổ Sam. Đó chẳng phải tài nghệ cao siêu nào, mà chỉ đơn giản, con rắn ấy không thể bị giết bởi đao kiếm thông thường.
Cơ thể Sam dần gục xuống. Con rắn thản nhiên cuộn quanh kiếm, khéo léo dùng đầu đỡ chuôi kiếm. Đúng lúc này, thái tử Arslan chạy tới. Chàng vừa thức dậy, chỉ mặc áo ngắn tay, không mang giáp, thứ vũ khí duy nhất là một con dao găm. Chàng nhìn thẳng vào mắt con rắng, cố gắng bình tĩnh.
“Bệ hạ, cẩn thận!”
Dariun hét lên. Con rắn lập tức xông đến tấn công. Dariun nhanh chóng vung tay trái, đỡ lấy hàm răng sắc nhọn của nó bằng con dao găm, đồng thời tay phải duỗi ra, nắm lấy chuôi kiếm Rukhnabad.
Ngay sau đó, lưỡi gươm Rukhnabad rời bỏ. Vì thân rắn chỉ quấn quanh bao nên chỉ cần đầu nó rời chuôi kiếm thì lưỡi kiếm có thể lấy ra.
Con rắn bị Arslan dụ vào bẫy, đánh mất báu vật. No buông bao kiếm ra, cuộn tròn mình lại trên mặt đất.
Thân mình xám đen của nó vặn vẹo vì tức tối, cố gắng trốn thoát. Những nơi nó bò qua, nọc độc chảy lênh láng, mùi hôi thối bốc lên. Con rắn đang cố hết sức lao nhanh thì bỗng nhiên dừng lại. Trước mặt nó là hai cung thủ bậc nhất xứ Pars, Gieve và Farangis, với tên đã lên dây.
Một mũi tên do Farangis bắn xuyên qua mắt rắn. Nó dùng sức nhảy vọt lên, định tấn công nữ tư tế, thì lại bị Gieve bắn mũi tên thứ hai xuyên vào cổ họng. Nếu sàn làm bằng gỗ thì có lẽ đầu nó đã bị ghim xuống rồi. Thân rắn có lớp vảy che kín, không thể tổn hại, nhưng nữ tư tế và chàng hát rong đều nhắm vào điểm yếu nhất.
Con rắn đau đớn phát ra những tiếng rít ghê tởm.
Arslan vung gươm Rukhnabad. Tia sáng trắng lóa xẻ đầu và thân rắn làm hai, tiếng xương gãy vang vọng trong tường đá.
Thân rắn rơi xuống đất, co giật vài lần rồi bất động. Tuy nhiên, đầu nó vẫn còn sống. Dù bị găm hai mũi tên, nó vẫn nhe nanh xông về phía Arslan như một mũi tên.
“Lửa!”
Farangis hét lên. Hiểu ý cô, Elam chạy đến góc tường, ném ngọn đuốc vào đầu con rắn. Đầu rắn dính phải dầu trên đuốc, bốc cháy ầm ầm như một quả cầu lửa. Lúc này, Rukhnabal lần thứ hai lóe sáng như chớp đông, xẻ đôi cái đầu thành hai nửa.
Cảnh tượng khó tin hiện ra trước mắt mọi người. Cái xác con rắn bắt đầu ro rút, biến dạng, cuối cùng thành một hình người trong bộ áo choàng xám đen, một cái xác không đầu, nhỏ bé đến kỳ lạ.
Những chiến binh dũng cảm nhất xứ Pars cũng không khỏi rùng mình ghê tởm.
“Con quái vật này là thứ gì vậy? Đồng lõa với Zahhak à?”
“Thật kinh khủng. Ta làm gì với cái xác này đây?”
“Tốt nhất là đổ dầu lên, đốt cháy rồi rải tro.”
Trong lúc Gieve và các marzban trò chuyện, Arslan tra thanh Rukhnabad vào vỏ. Chàng đưa kiếm cho Elam và quỳ xuống bên cạnh Sam đang nằm trên mặt đất. Chàng đỡ Sam dậy, để ông gối đầu lên lòng mình, khẽ lay gọi. Lúc này ông đã bị con rắn quỷ quái hút hết sinh mệnh, biến thành một ông cụ gầy gò. Sam mở mắt, trút tất cả sức lực cuối cùng vào câu nói.
“Điện hạ, à không, bệ hạ, xin người hãy trở thành một vị vua tốt. Thần bất tài, không phò trợ được người, chỉ mong người mang lại bình yên cho xứ Pars….”
Nói xong, vị tướng bất hạnh trút hơi thở cuối cùng. Arslan nhắm mắt, cúi đầu tiếcc thương. Giá như có cơ hội trò chuyện nhiều hơn với người này, họ sẽ hiểu được nhau. Dù không rõ Sam nghĩ gì, Arslan cũng biết lâu nay ông sống không hề yên ổn. Mỗi ngày trôi qua là mỗi lần dằn vặt lương tâm mình.
Đêm đã trôi từ lâu, trời gần rạng sáng nhưng cổng thành Ecbatana vẫn mở. Tiếng hát tiếng đàn của mọi người rộn vang khắp con phố. Không còn kẻ thù nào đến tấn công. Người dân thoát khỏi gong cùm của những ngày bị giam cầm. Niềm vui vỡ òa, kéo dài đến tận bình minh, hòa với tiếng sơn ca tưng bùng hót.
Ngày mai, công việc kiến thiết đầy khó khăn mới lại bắt đầu. Tối nay hãy cứ tiệc tùng cho thỏa. Ai cũng nghĩ thế. Đàn ông ca hát, phụ nữ nhảy múa, trẻ em nô đùa. Cả thú nuôi cũng chạy nhảy tung tăng. Ecbatana hồi sinh dáng vẻ thành phố ước mơ như trước.
Hai người cưỡi ngựa lặng lẽ rời khỏi cổng thành phía nam trong khi dân chúng hoa ca, bỏ lại dòng người hối hả, họ cứ thế đi từ sáng đến đêm. Đối với họ, ban đêm là lúc yên bình nhất. Hai người một nam một nữ cưỡi chung ngựa. Người đàn ông che nửa khuôn mặt bên phải vủa mình trong tấm khăn, còn người phụ nữ nhắm chặt đôi mắt.
Họ không có lãnh thổ, không có danh tính. Hoàng tử xứ Pars và công chúa xứ Maryam chỉ có nhau. Nếu trật tự và truyền thống lâu nay vẫn còn, họ đã là đôi tiên đồng ngọc nữ được người đời tung hô, cùng nhau sống trong vinh quang và quyền lực. Nhưng giờ đã khác, đất nước không còn trong tay họ nữa.
“Công chúa Irina, nàng mới xứng đội vương miện vàng.”
“Hoàng tử Hilmes, thiếp không cần vương miện nào cả. Vì nếu không sinh ra trong hoàng tộc, thiếp đã hạnh phúc biết bao.”
“Nhưng ta vẫn còn những chấp niệm trong lòng.”
Hilmes cười khổ sở, quay đầu nhìn cổng thành. Tiếng ca hát và ánh sáng tưng bừng vẫn vang vọng đến đây.
Hắn là ai? Khi những niềm tin suốt thời niên thiếu đã sụp đổ, Hilmes đánh mất ý nghĩa tồn tại của chính mình. Hóa ra thứ hắn vẫn luôn tìm chỉ là một cái vương miện bằng cát. Dù Hilmes thông minh xuất chúng, mạnh mẽ hơn người, nhưng trần đời không nơi nào dung hấn. Hắn từng làm tất cả để giành lấy ngai vàng, để rồi nhận ra mình chỉ là tên hề trong vở kịch của chính bản thân. Giờ hắn mất đi mọi thứ, chẳng còn gì, ngoài Irina.
Irina hỏi khi nghe tiếng Hilmes thở dài.
“Ngài Zandeh sao rồi?”
“Cậu ta nói muốn theo ta, nhưng ta không đồng ý. Chắc mai hắn sẽ đi lang thang đâu đó thôi. Ta không thể để hắn lãng phí thời gian với ta, khi cuộc đời này ngắn ngủi như vậy.”
Cái chết của Sam cũng khiến Hilmes hiểu ra. Chỉ vì hắn mải mê theo đuổi chiếc vương miện ảo ảnh, nhiều người tài năng hết lòng vì hắn đã hy sinh. Hilmes không hối hận, nhưng hắn buộc phải thừa nhận mình thất bại rồi. Có lẽ một ngày kia, tham vọng trong hắn sẽ lần nữa rực cháy? Nhưng giờ thứ thứ hắn cần chỉ là một chiếc giường để ngả lưng, tìm giấc ngủ yên lành.
Sau cái chết của vua Andragoras và vua Innocentius, cũng như sự ra đi của hoàng tử Hilmes, chỉ còn lại hoàng hậu Tahamine. Nhưng sau cùng, bà quyết định rời kinh đô Ecbatana. Kết thúc lễ tang của vua Andragoras, bà xin rời giá đến một vùng đất xinh đẹp nằm ở phía tây nam vương quốc Pars. Nơi đó từng là thủ đô của công quốc Badashkhan.
Khi thái tử hỏi nên đáp lại yêu cầu của hoàng hậu thế nào, Narsus nói.
“Cứ theo ý lệnh bà. Ai cũng phải dựa vào sức mình để sống tiếp. Hoàng tử Hilmes cũng thế thôi. Thần xin lỗi, nhưng điện hạ không thể cứu rỗi được họ. Hãy để họ tự lo đi.”
“Ta hiểu rồi. Ta sẽ nghe lời ngài Narsus.”
Dù có là thần thánh cũng khó lòng cứu vớt được trái tim một số người, chứ đừng nói Arslan, một vị vua vẫn còn non nớt. Chàng còn nhiều việc phải làm, làm tất cả những gì mình có thể.
Trước lễ đăng quang chính thức, Arslan đã trải qua vài ngày bị cô lập khỏi những người bạn đồng hành thân thiết bấy lâu. Đến ngày 2 tháng 9, lúc chạng vạng, chàng được hộ tống ra ngoài thành bởi 15 kỵ binh, trong đó có Dariun và Narsus. Cuối cùng, chàng bảo các thuộc hạ chờ dưới chân đồi, một mình cưỡi ngựa lên đồng cỏ. Chàng đến để tiễn đưa hiệp sĩ tập sự Estelle trở lại quê nhà.
Estelle muốn đưa hài cốt vua Innocentius đệ thất về cố quốc Lusitania của cô. Với mọi người, ông ta là vị vua đáng khinh, chỉ có Estelle là thần dân trung thành duy nhất.
Khi nghe Estelle quyết định, Arslan không ngăn cô. Chàng biết mình không ngăn được. Những gì chàng có thể làm là đưa cô trở lại quê hương an toàn.
Nếu đi Maryam bằng đường bộ thì có thể bị cuốn vào cuộc chiến giữa vua Guiscard và tổng giám mục Bodin, cho nên tốt nhất là đi đường biển tới quốc gia láng giềng Mirs. Mà để làm vậy thì cần có lộ phí và người hộ tống.
Đương nhiên Arslan đã lo hết lộ phí cho chuyến đi này. “Con ma trắng” người Lusitania cũng theo Estelle về quê hương. Biết đâu ở đó, anh ta sẽ tìm lại được quá khứ đã mất của mình.
“Cảm ơn anh bấy lâu nay.”
Estelle trịnh trọng nói. Một nhóm kỵ binh đang từ từ tiến về phía tây trên Đại lục vương lộ. Đó là những người hộ tống Estelle đến Mirs. Arslan cũng đáp.
“Hãy cẩn thận nhé.”
Dù không thể nào che giấu cảm xúc trên gương mặt nhưng giọng nói của chàng nghe rất bình thường. Arslan bỗng nhiên ước gì mình có tài thơ ca như Gieve thì lúc này đã chẳng lúng túng đến vậy.
“Nếu đến Pars lần nữa, chúng ta vẫn hết lòng chào đón cô.”
Những lời này quá phi thực tế. Sau khi Estelle trở về quê hương, cô sẽ đối mặt với vô số vấn đề như lãnh địa, quyền thừa kế, tước hiệp sĩ….Cô vẫn phải có trách nhiệm với gia đình mình, những người sống sót sau thảm họa.
“Anh đến Lusitania thì tốt hơn.”
Estelle nói, hai má đỏ bừng như tức giận.
“Lớn thêm chút nữa, anh sẽ trở thành một tên ngoại đạo đích thực, rồi sẽ mọc đuôi và sừng ra đúng không? Nhưng dù anh có thay đổi thế nào, tôi vẫn nhận ra.”
Estelle kéo dây cương ngựa, quay đầu lại, nói những lời cuối cùng.
“Vì tôi biết con người thật của anh.”
Câu này cũng giống với những gì Dariun từng nói với Arslan lúc trước. Dứt lời, Estelle đá vào bụng ngựa, phóng đi. Arslan không nói, chỉ vẫy tay nhìn bóng dáng cô xa dần. Khi Estelle quay đầu lại, hình ảnh Arslan như rực cháy trước bình minh. Cô gia nhập đoàn hộ tống, đi mãi tới khi chỉ nhỏ bằng chấm đen. Lúc ấy Arslan mới quay ngựa.
Còn nhiều việc chàng phải làm.
Nào là khôi phục kinh đô Ecbatana bị bỏ hoang đã lâu, sửa chữa kênh dẫn nước, cung cấp lương thực cho dân chúng, chôn cất người chết, tổ chức quốc tang cho vua Andragoras, tu sửa lăng mộ vua anh hùng Kai Khosrow…. À, mẹ ruột và vợ chồng người bảo mẫu từng chăm sóc chàng trước kia cũng nên được an táng lại cho tử tế. Nghe như thế toàn là chôn với cất. Thế nhưng chàng cần thể hiện lòng biết ơn những người đã cho chàng cuộc sống này. Xử lý xong, lễ đăng quang sẽ diễn ra. Chàng sắp trở thành vị vua thứ 19, và tiến hàng cuộc cải cách bằng chủ trương được ưu tiên hàng đầu là xóa bỏ chế độ nô lệ. Ngoài ra, chàng cũng phải hòa đàm với vua Rajendra của nước bạn Sindhura, gửi thư cho các nước láng giềng khác. Thực sự vô cùng bận rộn.
Arslan phi ngựa quay lại chỗ những người bạn đồng hành đang chờ đợi mình. Azrael bay vút trên đầu họ.
Dariun, Narsus, Gieve, Farangis, Alfarid, Jaswant, Kishward, Kubard, Merlane, Gurazeh, Isfan, Tus, Jaravand và Jimsa, những chiến binh được người đời sau gọi là “Mười sáu vị tướng giải phóng”, nay đã quy tụ được 15 vị.
Triều đại của Vua giải phóng sẽ mở ra trang sử mới.
Cùng lúc đó, có những người quay lưng với ánh sáng và niềm vui, ẩn mình trong pháo đài ẩm ướt tối tăm của riêng họ, rền rĩ hát khúc ca nguyền rủa lẻ thù. Sâu trong lòng đất ở kinh đô hoàng gia Ecbatana, bốn pháp sư rúc đầu vào nhau. Trước kia có 8 người, bao gồm cả chủ nhân của họ, nhưng giờ chỉ còn một nửa. Ba đệ tử bị giết, cuối cùng “người thầy đáng kính” cũng qua đời. Tuy nhiên, họ không tuyệt vọng. Gurgin lên tiếng trước.
“Đừng nuồn, chủ nhân đã có linh cảm từ trước. Ngài đoán rằng linh lực của Kai Khosrow sẽ trỗi dậy nên chúng ta mới vội đi bắt tên Chiến binh điên cuồng Ilterish đề hồi sinh cho người.”
“Vậy còn Xà vương Zahhak thì sao?”
Một gã tên Gundi hỏi. Gurgan đáp một cách hiển nhiên.
“Đương nhiên là nằm trong dự đoán. Hiện giờ, không có linh hồn nào trống trị thân thể của Andragoras.”
Nghe tiếng “À!” của mọi người, Gurgin thì thầm với các đồng đội.
“Hãy để những kẻ bất kính với Xà vương Zahhak tận hưởng chiến thắng của chúng đi. Ba năm, chỉ ba năm là đủ. Khi đó, chúng sẽ rơi từ đỉnh cao vinh quang xuống đáy sâu tuyệt vọng. Leo càng cao, rơi càng sâu!”
Tiếng cười vang lên, dâng trong lòng đất, nhưng biến mất trước khi chạm tới bề mặt bên trên, nên những con người đi lại trên đó hồn nhiên không hay biết gì về âm mưu này.
Đó là ngày 2 tháng 9 năm 321 lịch Pars.
-----------------------------
Lời editor :
Ước gì đây là kết thúc.
Các bạn không nghe nhầm đâu.
Ước gì Tanaka Yoshiki sensei chỉ viết đến đây thôi, và tất cả những gì chúng ta biết là Arslan giành lại kinh đô, trở thành một vị vua lưu danh sử sách. Không có những bi kịch máu chó về sau, cũng không có những nỗi thất vọng khiến con tim độc giả tan nát.
Bộ tiểu thuyết vẫn còn một phần 2 nữa, kéo dài đến tập 16. Nhưng mình không có ý định dịch tiếp. Lý do cụ thể, mình sẽ phân tích sau. Còn rất nhiều điều mình muốn chia sẻ về bộ truyện này.
À nhưng mà các bạn đừng lo. Chúng ta đã có ánh sáng cuối đường hầm là bộ manga chuyển thể của Arakawa Hiromu sensei. Truyện đã đi dần đến hồi kết rồi, qua trận Atropatene lần hai rồi. Và nhìn xu hướng này, có lẽ sensei sẽ đập đi xây lại phần cuối. Ta hoàn toàn có thể kỳ vọng câu chuyện kết thúc trọn vẹn mà không ai phải hy sinh.
Danh sách chương